Tìm Kinh Sách
 
        Kinh Sách FULL

Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú giảng lần thứ 4 năm 2014

Phật sở hành xứ, quốc ấp khu tụ, mĩ bất mông hóa, thiên hạ hòa thuận, nhật nguyệt thanh minh, phong vũ dĩ thời, tai lệ bất khởi, quốc phong dân an, binh qua vô dụng, sùng đức hưng nhân, vụ tu lễ nhượng, quốc vô đạo tặc, vô hữu oan uổng, cường bất lăng nhược, các đắc kỳ sở.
Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú
(Tập 1) 
Người giảng: Lão pháp sư Tịnh Không.
Thời gian: ngày 09 tháng 03 năm 2014
Địa điểm: giảng tại Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà HongKong.
(Đây là bộ khoa chú giảng lần thứ 4 khi ngài ở độ tuổi gần 90)
Các vị pháp sư, các vị đồng tu, xin chào mọi người, xin mời ngồi. Hôm nay là ngày 09 tháng 03 năm 2014, chúng ta bắt đầu học tập “Đại Kinh Khoa Chú” lần thứ 4. Mỗi lần học tập đều giúp cho chính chúng ta hướng nâng lên trên.

 

Chương 4: Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014 - Tập 2 - Phần 2

Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014 - Tập 2 - Phần 2

Thứ hai là: “Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật” chỉ nói hai vấn đề: Thứ nhất là lý luận, y cứ lý luận niệm Phật thành Phật là gì? Thứ hai là nói phương pháp phải làm thế nào mới có thể vãng sanh đến thế giới Cực Lạc. “Quán Kinh” là nói hai vấn đề này.
Lý luận chính là “thị tâm, thị Phật, thị tâm, tác Phật”, vậy thì chúng ta không còn hoài nghi cái tâm này là chân tâm, chân tâm là mỗi một người chúng ta đều có. Khi Phật giáo chưa đến Trung Quốc, nhưng lúc đó lão tổ tông của chúng ta cũng đã khẳng định, nói ra“bổn tánh vốn thiện”. Cái bổn tánh vốn thiện đó chính là chân tâm, chính là “thị tâm, thị Phật”, thị tâm thị Phật bổn thiện. Ta vốn dĩ là Phật, ta muốn làm Phật, hiện tại chúng ta niệm A Di Đà Phật, thì làm gì có lý nào lại không thành Phật? Quán kinh đem lý giảng cho chúng ta nghe rõ ràng, giảng tường tận rồi, sau đó lại nói đến có 16 loại phương pháp làm thế nào để vãng sanh. Đây chỉ là phần lớn, nói 16 loại lớn, còn trong mỗi loại có rất nhiều, có mấy mươi loại, mấy trăm loại. Loại sau cùng thứ 16 là dạy chúng ta phương pháp trì danh niệm Phật, chính là niệm danh hiệu của Phật “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm sáu chữ hoặc bốn chữ “A Di Đà Phật” cũng được, đều được.
“Nam Mô” là ý nghĩa quy y, ý nghĩa quy mạng, ý nghĩa lễ bái, còn danh hiệu của Phật chính là bốn chữ “A Di Đà Phật”. Chỉ cần chúng ta thành thật niệm, dùng chân tâm mà niệm, dùng tâm thanh tịnh mà niệm, dùng tâm cung kính mà niệm, đây gọi thật niệm. Cách niệm này có thể giúp chúng ta chuyển ác thành thiện, chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm thành thánh, có công đức lớn như vậy.
Cho nên thầy Đạo Ẩn của Nhật Bản nói “diệu điển kỳ đặc, tối thắng”. “Diệu điển” đây là nói kinh điển, là chỉ “Kinh Vô Lượng Thọ”, ở ngay trong tất cả kinh mà Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói 49 năm, “Kinh Vô Lượng Thọ” chính là “diệu điển, tối kỳ, tối đặc, tối thù thắng”. Cũng giống như ngày nay chúng ta nói, đem bộ phận rất tinh túy, bộ phận tinh hoa nhất của tất cả kinh giáo mà Thế Tôn đã nói 49 năm chính là “Kinh Vô lượng Thọ” mà chúng ta có được rồi. Tại vì sao có tán thán như vậy? Phía sau thầy Đạo Ấn có nói rõ tiếp“nhất thừa cứu cánh chi cực thuyết”, “nhất thừa” là cái đạo thành Phật. Bộ kinh này là nói thẳng đến thành Phật, hơn nữa mau chóng thành Phật, ổn định thành Phật. Bộ kinh này nói được như vậy, người nghe không dám tin tưởng, cho nên kinh này gọi là pháp khó tin, đây chính là“kỳ đặc thù thắng”, nên nhiều người không dám tin tưởng,“thành Phật chi đạo” là nói đến cùng tột, mau chóng ổn định.
Thứ ba là: “Kinh Di Đà”: Y theo trong kinh điển nói pháp, chân thật muốn vãng sanh thế giới Cực Lạc cần bao nhiêu thời gian? Trên “Kinh Di Đà” nói “hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày”. Có người một ngày thì có thể thành công, hai ngày thành công, ba ngày thành công, nói đến ngày thứ sáu, sau cùng là ngày thứ bẩy. Bảy không phải là số tự, bảy là nói đến viên mãn.
Lão Hòa thượng Hải Hiền niệm Phật, một phương hướng, một mục tiêu, một câu Phật hiệu đã niệm 92 năm. Chúng ta muốn hỏi, ngài bảy ngày có thể vãng sanh hay không? Bảy tháng có thể vãng sanh hay không? Rất nhiều người niệm Phật ba năm thì vãng sanh, liệu ngài niệm Phật ba năm có thể vãng sanh hay không? Khẳng định vãng sanh. Vậy tại vì sao ngài phải làm đến 92 năm? Đó là Phật giao sứ mạng cho ngài. Người ta hỏi ngài:
•       Ngài có thấy được A Di Đà Phật không?
•       Thấy được,
•       Ngài nói gì với A Di Đà Phật? A Di Đà Phật lại nói những gì với ngài? Ngài trả lời:
•       Tôi yêu cầu A Di Đà Phật mang tôi đến thế giới Cực Lạc, nhưng A Di Đà Phật chưa bằng lòng, không đáp ứng, A Di Đà Phật muốn tôi biểu pháp.
Bạn xem đây chẳng phải là lý do trường thọ hay sao? Nếu không có thọ mạng dài như vậy thì không thể cảm động người. Tuổi thọ dài đến như vậy, đã niệm Phật đến 92 năm, mọi người tin tưởng, cả đời không bị bệnh, khỏe mạnh sống lâu. Trước một ngày vãng sanh còn đang làm việc trong ruộng, ở trong vườn rau trồng rau từ sáng đến tối. Trời tối rồi có một số cư sĩ thấy người già cả ngày quá khổ cực liền nói với ông rằng:
•       Ông có thể nghỉ ngơi. Ông liền trả lời người đó:
•       Tôi sắp làm xong rồi.
Làm xong rồi thì không làm nữa, ngày thứ hai thì liền vãng sanh. Ông làm xong rồi! Cho nên ngay lúc đó nghe lời nói này, dường như là lời nói rất thông thường, không biết được đây là lời hai ý, trong lời có lời, ý nói cả công việc đồng ruộng lẫn công việc biểu pháp:“công việc của tôi làm đến ngày hôm nay thì thôi, ngày mai sẽ không làm nữa”. Ông tuy là không biết chữ, không có đi học, nhưng cái gì ông đều cũng biết, không luận vấn đề gì, ông thảy đều biết được. Điều này cũng chính là nói lên rằng ông sớm đã minh tâm kiến tánh. Tại vì sao ông không thị hiện giống như Đại Sư Huệ Năng? Vì “duyên” không như nhau. Ông sinh hoạt ở trong hoàn cảnh này mà đại chúng xã hội không hộ trì Phật pháp, cách mạng văn hoá, tượng Phật trong chùa đều bị phá, kinh sách bị đốt, không cho niệm Phật, len lén niệm, niệm ở trong tâm, không niệm ra tiếng, không cho lạy Phật, buổi tối người khác đều đi ngủ, thức dậy len lén mà lạy. Hoàn cảnh không như nhau, nên ông biểu pháp nhất định là phải làm sao để cái thời đại này chúng sanh được lợi ích. Còn loại biểu pháp mà Đại sư Huệ Năng đã biểu pháp nếu ở vào cái thời đại ngày nay thì “hành” không thông, còn loại biểu pháp này của ông thì “hành” được thông. Ông sống đến 112 tuổi, tuổi cao đến như vậy, mọi người tôn kính đối với ông, không còn tính toán, cho nên ông niệm Phật, không có người cấm kỵ ông, ông mặc lên tăng phục, người khác cũng sẽ không chỉ trách ông.
Cho nên phải hiểu rõ hoàn cảnh lớn, ở vào cái thời đại hiện tại này, và tiếp theo về sau 9000 ngàn năm Mạt Pháp của Thế Tôn loại phương pháp tu hành này của ông thì hữu dụng. Một người chân thật khổ tu thầm lặng, trong tâm thanh tịnh bình đẳng tự tại, giúp đỡ một số chúng sanh khổ nạn dưới quê đều rất thanh khổ, nỗ lực cần phấn trồng trọt để mọi người đều có thể ăn no. Cả đời ông khai hoang đất đai hơn 100 mẫu, diện tích rất lớn, trồng lương thực, trồng rau xanh, trái cây để cúng dường mọi người, cả đời không cần tiền. Ông đã biểu pháp nói với mọi người rằng nếu chân thật học Phật phải trì giới, phải chịu khổ, còn như không thể trì giới, không thể chịu khổ thì đó là giả, không phải là thật. Ông làm ra để cho chúng ta xem, ông vì “Kinh Vô Lượng Thọ” mà làm chứng. Những gì trên “Kinh Vô Lượng Thọ” đã nói, ông đều đã làm được.
Cho nên pháp sư Đạo Ẩn nói rất hay: “tốc tật” đây là nhanh chóng, “viên dung, kim ngôn”, chính là lời nói ra trong kinh là chân lý, chắc chắn không phải lời giả, “thập phương xưng tán chi thành ngôn” là lời nói thành thật của mười phương tán thán, mười phương chư Phật đều tán thán A Di Đà Phật, “thời cơ đốn thục chi chân giáo dã” là thời cơ thuần thục chân giáo. Nếu thời cơ không thành thục, thuần thục, chín muồi rồi, thì không luận ở vào thời đại nào, không luận ở khu vực nào, đều là chân giáo thời cơ chín mùi nó sẽ không thay đổi. Cho nên nhất định đều là phải thời cơ thuần thục thì chân giáo ở trên cái địa cầu này, không phân biệt khu vực, không phân biệt chủng tộc, không phân biệt tín ngưỡng, không phân biệt văn hoá đều có thể “hành” được thông, đều sẽ được mọi người hoan hỉ tâm đến học tập. Chỉ cần đem nó giảng rõ ràng, giảng tường tận, thì không có người nào nghe đến mà không sanh tâm hoan hỉ. Cái điểm này chúng ta phải tường tận, chúng ta phải rõ ràng.
“Tiên cựu thị Mai Quang Hi lão cư sĩ diệc tán vân” là lão cư sĩ Mai tán thán ở trong lời tựa của bổn kinh. Lão cư sĩ Mai nói “Vô Lượng Thọ Kinh giả, Như Lai xưng tán chi cực đàm, chúng sanh bổn cụ chi hóa nghi”. 
Còn Cư sĩ Bàng Thiệu Thăng cũng tán viết “Vô Lượng Thọ Kinh giả, Như Lai xưng tánh chi viên giáo chúng sanh bổn cụ chi hóa nghi”. Như vậy có thể thấy câu tán thán này của lão cư sĩ Mai Quang Hi cùng cư sĩ Bàng Thiệu Thăng nói là như nhau.
“Nhất thừa chi liễu nghĩa, vạn thiện chi tổng môn”.
Hai câu nói này vô cùng quan trọng.“Vạn thiện” nếu chúng ta muốn tu thiện, tu bằng cách nào? Niệm A Di Đà Phật chính là tu “vạn thiện”, không phí công phu, không phí khí lực, không phí tiền tài, vạn thiện đều tu, không phải giả.
“Tịnh Độ quần kinh, bách số thập bộ chi cương yếu, nhất đại tạng giáo chi chỉ quy dã”.
“nhất đại tạng giáo” chính là nói trong tất cả kinh điển Thế Tôn truyền lại tất cả kinh điển, bao gồm tất cả kinh điển đến sau cùng, thảy đều chỉ quy “tín, nguyện, trì danh” vãng sanh Tịnh Độ. Lão Hòa thượng Hải Hiền vì chúng ta thị hiện ra, chân thật là “nhất đại tạng giáo chi chỉ quy”, ông làm được rồi, ông viên mãn đạt được.
“như thượng, chư hiện sở dĩ thạnh tán thử kinh giả, cái dĩ, bổn kinh, trì danh niệm Phật, pháp môn viên mãn trực tiệp, phương tiện cứu cánh, nhất siêu trực nhập, tối cực viên đốn”
Pháp môn này tốt, dễ dàng học. Học “Kinh Vô Lượng Thọ” còn có một phương pháp xảo diệu, thế nhưng không thể có hoài nghi. Mỗi ngày đọc kinh, niệm Phật, thời gian đọc kinh không cần định biến số, mà định thời gian là mười giờ đồng hồ. Mười giờ đồng hồ đọc được bao nhiêu biến không câu nệ, nhưng phải dùng tâm chân thành, dùng tâm thanh tịnh, dùng tâm cung kính. Mỗi ngày đọc mười giờ đồng hồ, khi mới bắt đầu đọc, đại khái đọc một biến phải hai giờ đồng hồ, sau ba tháng, đại khái đọc một biến một tiếng rưỡi đồng hồ thì được, sau nửa năm thì một giờ đồng hồ, sau một năm đại khái chỉ cần bốn mươi phút. Vì sau vậy? Đọc thuộc rồi. Phải đọc đủ mười giờ đồng hồ, cứ đọc liên tục, ý nghĩa gì không quan tâm, mỗi một chữ đọc được rất chính xác, không có đọc sai, không có đọc sót. Sau mười năm bạn tự nhiên giảng được kinh này, hơn nữa giảng được giống như Phật. Vì sao vậy? Cái phương pháp này đem tâm thanh tịnh của bạn niệm ra rồi, tâm bình đẳng niệm ra rồi, đây gọi là “nhất tâm bất loạn”.
“Nhất tâm bất loạn” sanh trí tuệ, trí tuệ tự nhiên thông đạt, tự nhiên thông suốt. Sau mười năm, bộ kinh này bạn giảng giống như Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa ở đời đã giảng không hề khác. Có ai bằng lòng thử xem? Tôi nói lời này không phải tùy tiện nói, có một người thử nghiệm thành công rồi, đó là cư sĩ Lưu Tố Vân ở Đông Bắc. Vào năm xưa cô được một bộ đĩa “Kinh Vô Lượng Thọ”, tôi nghe nói là bộ đĩa này tôi giảng ở Đài Loan, là lần thứ tư hay là lần thứ năm tôi không rõ. Bộ kinh này tôi đã giảng hơn 100 giờ đồng hồ, tổng cộng là 120 giờ đồng hồ. Bộ kinh tôi giảng này lưu lại thành một bộ đĩa, cô mỗi ngày nghe 1 đĩa, một đĩa là hết một giờ đồng hồ, mười giờ đồng hồ này cô nghe mười lần, nghe xong rồi nghe lại từ đầu, nghe mười lần chính là mười giờ đồng hồ, còn thời gian khác cô niệm Phật. Khi nghe kinh chuyên nghe, cô nghe được mười năm, một bộ nghe xong nghe lại từ đầu, đều là cái phương pháp này, một ngày một đĩa nghe mười lần, tốt. Trường kỳ huân tu, tâm được định. Sau mười năm trí tuệ chân thật khai mở, “Kinh Vô Lượng Thọ” cô nói không sai, mọi người hoan hỉ nghe cô giảng kinh, các kinh khác cô không có học qua thảy đều có thể giảng, một kinh thông tất cả kinh thảy đều thông. Đây là một tấm gương tốt, thí dụ tốt.
Chân thật học tập không nên gấp, không nên nghĩ ta phải mau ra giảng kinh, không cần thiết. Sau khi khai ngộ thì ra giảng kinh, tâm của bạn là định. Phàm hễ đến khi đã khai ngộ thì vãng sanh thế giới Cực Lạc có thể tùy ý, ta muốn lúc nào đi thì đến lúc đó ra đi, không chút chướng ngại. Loại người này đối với thế gian này không có bất cứ vướng bận nào, cho nên họ tùy thời có thể ra đi, muốn đi liền đi, bằng lòng ở thêm mấy năm cũng không chướng ngại gì, sanh tử tự tại.
Các đồng tu có thể làm thực nghiệm, làm một biểu pháp cho đồng tu Tịnh Tông, thời gian mười năm, đây là trí tuệ của tự tánh khai rồi. Hiện tại tại vì sao không khai? Bạn có vọng tưởng, bạn có tạp niệm. Bạn có thể dùng cái phương pháp này của Lưu Tố Vân. Lão Hòa thượng Hải Hiền là dùng phương pháp niệm Phật, chúng ta có thể dùng phương pháp đọc kinh, mười năm chuyên đọc một bộ kinh này, không nên cầu giải, chỉ đọc kinh không nên đọc chú giải. Dùng nguyên văn của bổn kinh đọc qua mười năm, sau mười năm, bạn lại xem chú giải của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, một chút chướng ngại cũng không có, không có câu nào bạn không hiểu, tự nhiên liền thông đạt hết. Sau đó bạn xem Tịnh Độ các kinh, hoặc giả xem “Đại Tạng Kinh”, cũng đều không có chút chướng ngại nào.
“Như Thượng, chư hiền sở dỉ thạnh tán thử kinh giả, cái dỉ, bổn kinh trì danh niệm Phật pháp môn, viên mãn trực tiệp, phương tiện cứu cánh, nhất siêu trực nhập, tối cực viên đốn”
Biểu cái pháp này, tán thán cái pháp môn này, làm cho cái pháp môn này bằng chính từ tự thân chúng ta làm ra để cho mọi người xem, người người tự nhiên liền tin tưởng.
dĩ Di Đà nhất thừa nguyện hải, lục tự hồng danh chi cứu cánh quả giác, tác ngã chúng sanh chi nhân tâm, dĩ quả vi nhân, nhân quả đồng thời, tùng quả khởi tu, tức tu tức quả, tâm tác tâm thị, bất khả tư nghì”. 
Đây là trùng tuyên lại nguyên văn của lão Hạ Liên để chúng ta tin sâu không nghi đối với lời của Liên Công đã nói. Bổn kinh đề xướng trì danh niệm Phật, cái pháp môn này, đích thực là viên mãn thẳng tắp, phương tiện cứu cánh, nhất siêu, trực nhập, viên cực, đốn cực. “Viên” là viên mãn, không có chút kém khuyết, “đốn” là mau chóng, như nguyện thứ 18 đã nói “một niệm, mười niệm nhất định được sanh”. Câu Phật hiệu này, tại vì sao có năng lực lớn đến như vậy? Phía sau nói ra, đây là “Di Đà nhất thừa nguyện hải”.
“Nhất thừa nguyện hải”:“nhất thừa” là thành Phật, “nguyện” là 48 nguyện. Phẩm thứ sáu của quyển kinh là đem 48 nguyện của A Di Đà Phật thảy đều nói ra, mỗi nguyện đều hiện thực, vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, Di Đà 48 nguyện bạn thảy đều đạt được. Ngài đã phát ra nguyện, chúng ta thọ dụng được, cả đời viên mãn thành Phật, hiển thị ở ngay trong 48 nguyện.
“lục tự hồng danh, chi cứu cánh quả giác”: Phương pháp tu hành chính là “Nam Mô A Di Đà Phật”. Một câu danh hiệu này, câu danh hiệu này là cứu cánh quả giác, là A Di Đà Phật chứng đắc. Câu danh hiệu này là ý nghĩa gì? A Di Đà Phật bốn cái chữ này toàn là tiếng Phạn, dịch thành ý Trung văn: A là Vô, Di Đà là Lượng, Phật là Giác ngộ. Không phải không thể phiên dịch câu này, có thể phiên dịch ra, nếu có thể phiên dịch vậy tại vì sao không phiên dịch? Vì tôn trọng mà không phiên dịch. Vô Lượng Giác, nếu chúng ta muốn hỏi, có vị Phật nào không phải là Vô Lượng Giác? Chỉ cần là Phật đều là Vô Lượng Giác. Hay nói cách khác cái danh hiệu này là tên chung tổng danh hiệu của mười phương ba đời tất cả chư Phật. Niệm một câu Phật hiệu này, thì có nghĩa là mười phương ba đời tất cả chư Phật thảy đều niệm hết rồi, không hề sót một vị nào.
Chúng ta tương lai thành Phật cùng là Vô Lượng Giác. Cho nên Vô Lượng Giác chính là quả đức của Phật. Chúng ta ngày nay dùng cái quả này làm tâm nhân của ta. Bạn xem, lấy quả làm nhân, nhân quả đồng thời, từ quả khởi tu, tức tu tức quả. Một câu A Di Đà Phật chính là thành Phật rồi, Phật chính là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật… chính là thành Phật, đích thực hoàn toàn phù hợp với nguyên lý của Tịnh tông “thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật”. “Thị tâm, thị Phật” là chúng ta vốn có, đây là tự tánh, còn chúng ta niệm A Di Đà Phật là “thị tâm tác Phật”, làm gì có lý nào mà không thành tựu? Chắc chắn đi đến thế giới Cực Lạc để làm Phật, chân thật không thể nghĩ bàn.
Phía sau đoạn thứ tư, Đại Sư Ngẫu Ích đã nói trong “Di Đà Yếu Giải”:
“nhất thanh A Di Đà Phật tức thị Thích Ca Bổn Sư ư ngũ trược ác thế sở đắc chi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề pháp” 
Ý nghĩa của câu nói này là gì? Là nói rõ cho chúng ta biết Thích Ca Mâu Ni Phật làm thế nào thành Phật? Ngài tu pháp môn gì thành Phật?
“Ngũ trược”, ngài ở đời ác năm trược, “A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” chính là “Vô Thượng Bồ Đề”, chính là thành Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật chính là niệm Phật thành Phật, chính là niệm một câu “A Di Đà Phật”, chính là Thích Ca Mâu Ni Phật ở nơi đời ác năm trược mà đắc “Vô Thượng Bồ Đề”.
“Kim, dỉ thử quả giác toàn thể, họ dữ trược ác chúng sanh”.
Chúng ta ngày nay chính là chúng sanh trong đời ác năm trược. Thích Ca, ngài chính mình thành tựu, cái phương pháp của ngài thành tựu là niệm Phật thành Phật. Ngày nay ngài đem phương pháp của ngài chính mình thành Phật truyền thụ cho chúng ta.
Cái pháp môn này là “nãi chư Phật sở hành cảnh giới, duy Phật dữ Phật năng cứu cánh, phi cửu giới tự lực sở năng tín giải dã”.
“cửu giới” là từ Bồ Tát trở xuống. Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác là ba, phía sau là sáu cõi, gọi là chín pháp giới. Người của chín pháp giới không có trí tuệ cao đến như vậy, đối với diệu pháp của Tịnh Tông họ không cách gì lý giải. Đại Sư Ngẫu Ích nói ra lời nói này, làm cho Đại Sư Ấn Quang bội phục năm vóc sát đất. Vì sao vậy? Đây là vì ngày trước tổ sư đại đức chưa nói qua, đến Đại Sư Ngẫu Ích, ngài nói ra:
“hựu viết; cử thử thể ‘chỉ pháp giới thể’ tác Di Đà thân độ diệc tức cử thử thể, tác Di Đà danh hiệu, thị cố Di Đà danh hiệu, tức chúng sanh bổn giác lý tánh”. 
Chỗ này cũng là không có người nói qua. Một câu danh hiệu của A Di Đà chính là tự tánh của chúng ta, chân như bổn tánh, cũng chính là lão tổ tông chúng ta nói cho chúng ta bổn tánh vốn thiện “nhân chi sơ, tánh bổn thiện”. Bổn tánh vốn thiện là gì? Chính là một câu A Di Đà Phật, “khả kiến thử kinh chánh thị Như Lai xứng tánh cực đàm dã”.
Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đoạn lời nói sau cùng này, nói rõ ràng, nói tường tận. Tại vì sao cổ đức nói “Kinh Vô Lượng Thọ” là “Như Lai xứng tánh cực đàm”, giảng đến cứu cánh viên mãn, giảng đến chỗ cùng cực. Theo Đại Sư Ngẫu Ích, hai đoạn lời nói này có thể làm thuyết minh, chân thật không giả, “cố “Di Đà Yếu Giải” viết: “nhất thanh A Di Đà Phật, tức Thích Ca Bổn Sư ư ngũ trược ác thế sở đắc chi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề pháp”. 
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề cũng có thể dịch thành Trung văn, nhưng cũng giống như danh hiệu của A Di Đà Phật, đều là thuộc về tôn trọng nên không dịch. Nếu đem nó dịch ra ý nghĩa của Trung văn (đây là dịch âm) thì “A” là ý nghĩa là Vô, “Nậu Đa La” là Thượng (thượng của thượng hạ), ghép hai câu “A Nậu Đa La” là Vô Thượng, “Tam” là Chánh, “Miệu” là Đẳng, “Tam” phía sau là Chánh, “Bồ Đề” là Giác, dịch thành Chánh đẳng chánh giác, hết thảy dịch ra là “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.
Đây chính là thành Phật rồi. Bồ Tát chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì thành Phật. Pháp thân Bồ Tát đích thực phiền não đều đoạn hết rồi, nhưng tại vì sao vẫn không thể thêm “Vô Thượng” vào? Đẳng Giác Bồ Tát vẫn không thể nói Vô Thượng, bởi vì họ còn có một phẩm vô thỉ vô minh tập khí phiền não vẫn chưa đoạn sạch, còn nếu chân thật đoạn sạch rồi thì gọi là Vô Thượng Bồ Đề, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác gọi là “Diệu Giác”, không gọi là “Đẳng Giác”. Vào lúc này thân độ đều dung nhập vào Thường Tịch Quang. Trong “bốn độ” thì cõi Thường Tịch Quang Tịnh Độ chân thật, bạn xem các loại cõi khác, cõi Thật Báo trang nghiêm Độ, cõi Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Độ, cõi Phàm Thánh Đồng Cư Độ, toàn là tâm hiện, không có thức biến, cho nên gọi “Pháp Giới Nhất Chân”. Pháp giới nhất chân có ẩn, có hiện, nhưng nó không có sanh diệt, có duyên nó liền hiện, không có duyên nó không hiện, dung nhập Thường Tịch Quang thì không có duyên, nó liền không hiện, biến thành đại quang minh tạng. Có duyên nó liền hiện, cái gì là duyên? 41 vị Pháp Thân Bồ Tát là duyên, những Bồ Tát này là vô minh tập khí cảm được “báo độ”, gọi là cõi Thật Báo Trang Nghiêm độ, ở chỗ này nếu đoạn hết vô minh tập khí, đem vô minh tập khí đoạn sạch thì cõi Thật Báo liền không hiện, Bồ Tát liền bước vào Thường Tịch Quang.
Thường Tịch Quang là một mảng quang minh, không có hiện tượng vật chất, không có hiện tượng tinh thần, cũng không có hiện tượng tự nhiên. Thường Tịch Quang ở chỗ nào? Không nơi nào không có, không lúc nào không có, khắp pháp giới, hư không giới đều ở trong Thường Tịch Quang, cho nên tất cả chư Phật Như Lai (đây là chỉ trong Thường Tịch Quang) có cách ly với chúng ta hay không? Xin nói với các vị không có, chúng ta dung vào trong Tịch Quang, chúng ta không thấy được Tịch Quang, nhưng trong Tịch Quang bao gồm chư Phật Như Lai đều thấy được chúng ta, chúng ta không thấy được các ngài, các ngài thấy được chúng ta. Nếu chúng ta thật tin, thật nguyện, đối với thế gian này vọng tưởng tạp niệm chân thật đoạn hết rồi, chúng ta muốn thấy Phật thì ngài liền hiện, liền hiện tướng, bạn liền có thể thấy được. Hiện tại vì sao không thấy được các ngài? Chúng ta có chướng ngại, các ngài ở nơi đó không có chướng ngại, nhưng chúng ta có chướng ngại. Tịch Quang chính là chân như bổn tánh của chúng ta, không phải thứ khác.
Phía trước mấy đoạn lời nói này nói được quá tốt. Bạn nói lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, ông là người thông thường sao? Người thông thường không thể nói ra những điều này. Ông dẫn chứng những lời của những tổ sư đại đức, những tổ sư  đại đức này, có người nào không phải là người Đại triệt đại ngộ minh tâm kiến tánh. Chúng ta xem thấy văn tự này, nghe được những âm thanh này, không phải người kiến tánh thì không thể nói ra được, không phải người kiến tánh thì không thể viết ra được. Các ngài đến cái thế gian này, trụ thế không luận là dài ngắn, đều là độ chúng sanh hữu duyên, đều là đến để biểu pháp.
Liên Trì Ngẫu Ích năm xưa khi ở đời, làm ra tấm gương cho chúng ta xem. Sau khi ngài đi rồi lưu lại một số trước tác. Những trước tác này chủ yếu là giúp chúng sanh hữu duyên đời sau. Bạn xem thấy, bạn nghe thấy, là bạn có duyên với họ. Nếu như chúng ta dụng tâm dụng được chánh, xem rồi, nghe rồi liền khai ngộ. Khi vừa khai ngộ “tín, nguyện, trì danh” của chúng ta liền kiên định không đổi thì ngay trong một đời này chắc chắn thành tựu, đến thế giới Cực Lạc, đi làm A Duy Việt Chí Bồ Tát, chân thật không hề giả.
“Khả kiến thử kinh, thật thị đại từ bi phụ, Như Lai Thế Tôn, xứng tánh cực đàm, chư Phật bí tạng, hòa bàn thác xuất”. 
“Hòa bàn” chính là không hề giữ lại một chút nào, ngay cái khay đựng cũng bày ra hết. Đây là nói cái gì? Chính là nói bộ kinh này. Bộ kinh này cùng cái danh hiệu này, là chúng sanh “lý tánh bổn giác”, chính là tự tánh của chúng sanh, chân như bổn tánh, cùng chúng ta là một thể. Quan hệ quá mật thiết, không phải vật ở ngoài tâm.
Đại thừa giáo thường nói “ngoài tâm không pháp, ngoài pháp không tâm”. Tâm cùng pháp là một không phải hai, khi mê nói hai, khi giác thì không hai, nó là trí tuệ đức tướng của tự tánh. Phật vì chúng ta nói tự tánh, tự tánh vốn đủ, có trí tuệ, có đức năng, có tướng hảo, không phải từ bên ngoài đến.
Kinh văn này văn tự không dài, rất thích hợp với thời đại hiện tiền này, quá dài thì không có thời gian, không cách gì tu học.
Như “Kinh Hoa Nghiêm” quá dài, chúng ta ngày trước phát tâm muốn đem nó giảng qua 1 lần, chúng ta dự tính “Kinh Hoa Nghiêm” giảng từ đầu đến cuối, giảng một lần phải hết bao nhiêu thời gian, dự tính phải hết 20 ngàn giờ, không có người nào có thể học.
“Kinh Vô Lượng Thọ” này thì còn có thể, kinh này thời gian tiêu chuẩn giảng hết 1200 giờ đồng hồ, nếu một ngày giảng 4 giờ đồng hồ thì phải hết 300 ngày mới giảng xong, vẫn còn được, dài nữa thì sẽ không có người học.
“Kinh Di Đà” thì càng ngắn, pháp sư thông thường ở bên ngoài giảng “Kinh Di Đà”, đại khái mất 7 giờ đồng hồ. Giảng 7 ngày, một ngày giảng 2 giờ đồng hồ vì còn có người phiên dịch, trên thực tế nếu không có người phiên dịch thì chỉ là hết 7 giờ đồng hồ.
Tôi giảng qua “Di Đà Kinh Sớ Sao”, giảng qua một lần hết hơn 300 ngày, một ngày giảng 1,5 giờ đồng hồ, giảng hơn 300 ngày, lưu lại còn có băng ghi âm, vào lúc đó không có ghi hình, có ghi âm, giảng được rất tường tận.
Cho nên Niệm lão ở ngay chỗ này, mấy câu nói tổng kết:
“thả thử niệm Phật pháp môn, diệc tức chúng sanh bổn cụ chi hóa nghi, thử nhất cú Phật hiệu, chánh như yếu giải sở thị, tức thị chúng sanh bổn giác lý tánh”.
Phật vì chúng ta phát minh ra, giảng tường tận nói rõ ràng, chúng ta phải cảm ân, phải cảm tạ.
“ngũ, Quán Kinh vân “thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật”.
Hai câu này là Thế Tôn ở trên “Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh” nói với chúng ta lý luận của Tịnh Độ tông, Tịnh Độ cái pháp môn này căn cứ vào đạo lý gì để kiến lập? Nếu không có đạo lý rõ ràng, chúng ta không thể tin tưởng, không thể tiếp nhận. Phật đem cái đạo lý này nói ra, đó chính là tám cái chữ “thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật” này:
“thị tâm thị Phật”. Phật là gì? Ý nghĩa của Phật là giác, nên “thị tâm thị Phật” cũng chính là “thị tâm thị giác”. “Giác” chính là Phật. Thế nhưng hiện tại chúng ta như thế nào? Hiện tại chúng ta thị tâm thị “mê”, nó không phải là “giác”. Mê chính là chúng sanh, giác chính là Phật, là một không phải hai, chúng sanh giác rồi thành Phật, mê rồi biến thành chúng sanh. Cái vũ trụ này từ đâu mà ra? Trong Đại thừa Phật giáo nói cho chúng ta, cái vũ trụ này là giả, không phải là thật.
Một bài kệ trong “Kinh Kim Cang” miêu tả được rất là hay, nói “tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bèo bọt, như sương cũng như chớp, phải nên quán như vậy”. Bài kệ này nói rõ chân tướng của cả thảy vũ trụ là cái gì? Là một giấc mộng. Chúng ta đang nằm mộng, nếu đem cảnh giới trong mộng cho là thật thì sai rồi, không phải thật. Tồn tại của nó giống như hạt sương, hạt sương chúng ta thường thấy, mặt trời vừa nhô lên liền sẽ khô hết, như chớp, chớp là ánh chớp, vừa chớp muốn tìm dấu vết cũng không có, không phải là thật, mà là giả, cho nên đem nó xem thành cảnh mộng, đem nó xem thành ánh chớp, thì đúng rồi.
Bạn xem thấy chân tướng của vũ trụ vạn vật, vũ trụ từ đâu mà có? Vạn vật từ đâu mà ra? Sinh mạng từ đâu mà có? Ta từ đâu mà ra? Lục tổ Đại Sư Huệ Năng khi ngài khai ngộ nói được rất hay, một câu nói sau cùng, những nghi vấn này của chúng ta ngài đều trả lời rồi “nào ngờ tự tánh, năng sanh vạn pháp”. Không hề nghĩ đến, tự tánh của chúng ta “năng sanh vạn pháp”, cũng chính là nói năng sanh vũ trụ, năng sanh tất cả pháp, năng sanh sinh mạng. Ta từ đâu đến? Từ tự tánh biến hiện, tự tánh ở trong mộng, một giấc mộng dài, không có thứ nào là thật.
Lão hòa thượng Hải Hiền biết được, thường hay nói với người niệm A Di Đà Phật, “câu Phật hiệu này là thật, ngoài cái này ra thảy đều là giả”. Ngài có thể nói ra lời nói này, đây cũng chính là “Lục Tổ Đàn Kinh”,đây chính là “Kinh Kim Cang”. Người minh tâm kiến tánh đã nói ra, thì đây là chân tướng sự thật. Vậy nếu đã là “giả” thì phải nên buông xả, thì không nên để ý đến nó. Chân thật phải nắm chắc, chúng ta mới có thể nâng cao chính mình. Thế giới Cực Lạc chân thật là pháp giới nhất chân, A Di Đà Phật là chân thật, Di Đà danh hiệu cũng là thật. Bạn “Tín, Nguyện, Trì danh” khi lâm chung, Phật liền đến tiếp dẫn bạn vãng sanh. Tôi tin tưởng, mỗi một người vãng sanh đều đã gặp mặt qua với Phật, vì nếu họ không gặp mặt với Phật, làm sao họ có thể biết trước giờ ra đi? Làm sao họ biết được đến lúc nào Phật đến tiếp dẫn họ? Phải là Phật nói với họ, hoặc là sớm hơn, hoặc là trễ hơn, đều có thể thương lượng với A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật rất từ bi, bạn xem qua vãng sanh của pháp sư Oánh Kha triều nhà Tống, đây là một thí dụ rất tốt. Oánh Kha là người xuất gia, Tỳ Kheo phá giới, không giữ thanh qui, tạo tác tội nghiệp nghiêm trọng, nhưng chỗ tốt của người này chính là ông tin tưởng nhân quả, ông tin tưởng có địa ngục, nên ông chính mình thường hay nghĩ đến hành động tạo tác của chính mình, ông so sánh với những gì trên kinh đã nói thì ông có thể khẳng định ông sẽ đọa Vô Gián Địa Ngục. Nghĩ đến Vô Gián Địa Ngục, ông liền lo sợ, liền khiếp sợ. Vậy phải làm sao đây? Ông liền thỉnh giáo với đồng tham đạo hữu xem có cách gì để cứu ông hay không, để ông không bị đọa địa ngục. Liền có đồng tu tặng ông một quyển “Vãng Sanh Truyện”. Ông xem rồi rất cảm động, xem thấy mỗi một người niệm Phật vãng sanh ông đều rơi nước mắt. Sau cùng ông liền hạ quyết tâm, một lòng chuyên niệm A Di Đà Phật, chân thật buông xả vạn duyên, ba ngày ba đêm không ngủ nghỉ, một câu Phật hiệu niệm đến cùng, niệm đến ngày thứ ba A Di Đà Phật đến, nói với ông:
•       Con còn đến mười năm tuổi thọ, đợi đến khi con lâm chung, ta sẽ đến tiếp dẫn con.
Cái này cảm ứng không thể nghĩ bàn, bạn xem nhất tâm chuyên niệm, ba ngày ba đêm liền niệm ra được A Di Đà Phật. Người xưa có một câu nói “phước trí tâm linh”, người này phước báo đến rồi, họ bỗng nhiên liền thông minh, trí tuệ khai mở. Oánh Kha cũng là như vậy, khi nghe Phật nói với ông sau mười năm nữa sẽ đến tiếp ông vãng sanh, ông lập tức liền yêu cầu với A Di Đà Phật, ông nói:
•       Liệt căn tánh của con rất nặng, con không kìm nổi cám dỗ, người khác đến dẫn dụ con, con lại liền phạm tội, mười năm tuổi thọ con không cần, hiện tại con muốn theo ngài đi.
Đây chính là “phước trí tâm linh”. Cơ hội này quá tốt rồi, còn có thể đợi hay sao? A Di Đà Phật đồng ý nói với ông:
•       Ba ngày sau ta đến tiếp con!
Ba ngày là ý gì? Bảo ông làm biểu pháp, nếu hiện tại ta mang ông đi rồi thì không có người biết, còn như để ông lưu lại ba ngày, ba ngày, ông nói với mọi người:
•       Sau ba ngày nữa Phật đến tiếp dẫn tôi vãng sanh.
Trong chùa không có một người tin tưởng ông. Vì sao vậy? Vì ông là một Tỳ Kheo phá giới, lời nói không đáng tin, thường hay nói vọng ngữ. May mà ba ngày không dài, họ nói với ông:
•       Chúng tôi chờ xem có phải vậy không? Xem ông ba ngày có vãng sanh hay không?
Đến ngày thứ ba, ông yêu cầu đại chúng niệm Phật đưa ông vãng sanh. Đại chúng đương nhiên hoan hỉ, mọi người đến đưa ông vãng sanh. Đại chúng niệm Phật đại khái qua một khắc, một khắc vào thời xưa đại khái chúng ta hiện tại gọi là 15 phút (Niệm Tổ Lão dường như có nói qua, 15 phút đồng hồ vào thời xưa là một khắc). Đại chúng niệm qua một khắc, pháp sư Oánh Kha nói với mọi người:
•        A Di Đà Phật đến rồi!
Ông có thể thấy được, mọi người không thấy được. Ông cáo biệt với đại chúng:
•       Tôi theo Phật đi đến thế giới Cực Lạc.
Nói xong liền đi thật. Câu chuyện này viết trong “Tịnh Độ Thánh Hiền Lục”, trong “Vãng Sanh truyện”,quyết định không phải là giả, nói rõ vãng sanh có thể tự tại.
Đoạn phía sau nói: “ngũ, Quán Kinh văn: thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật, ngô nhân năng niệm chi tâm, tực thị Như Lai quả giác, tức thị bổn lai thành Phật”.
Đây là dùng chân tâm. Tôi thường hay khuyên đồng tu: “Chúng ta hiện tại ở cái thế gian này, đối nhân xử thế tiếp vật phải dùng chân tâm, không nên dùng vọng tâm, phải dùng tâm chân thành”. Vì sao vậy? Tâm chân thành là tâm thành Phật. Nếu ta dùng vọng tâm, người khác lừa gạt ta, ta cũng lừa gạt người, dùng cái tâm này niệm Phật sẽ không có cảm ứng, vãng sanh rất khó. Còn dùng chân tâm, đối người tiếp vật thảy đều dùng tâm chân thành, không sợ thiệt thòi, không sợ bị lỗ, vì ta muốn đi đến thế giới Cực Lạc, ta không ở thế gian này nữa, ta muốn rời khỏi thế gian này, cho nên phải dùng chân tâm, không dùng vọng tâm. Dù ta có chịu lỗ, thiệt thòi đều hoan hỉ, tu nhẫn nhục Ba La Mật, tu bố thí Ba La Mật. Phải có thể xả, xả chính là buông xả, cho nên dùng cái tâm này, chính là “thị tâm tác Phật”. Dùng chân tâm chính là làm Phật, dùng vọng tâm chính là luân hồi sáu cõi, quyết định không nên làm, tâm chân thành đối người, tâm chân thành làm việc, tâm chân thành học tập, tuyệt đối không nên dùng vọng tâm.
Cái gì là tâm chân thành? Việc này trong kinh điển giảng nói rất nhiều, buông xả chấp trước chính là tâm thanh tịnh. Trên đề kinh chúng ta là “Thanh tịnh tâm, Bình đẳng tâm, Giác tâm”. Đây đều là nói chân tâm. Tâm thanh tịnh là A La Hán, tâm bình đẳng là Bồ Tát, tâm giác chính là Đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, vậy thì thành Phật rồi.
Thế nào là tu tâm thanh tịnh? Chính là niệm Phật, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật, bất cứ thứ gì đều không nên để vào tâm, tâm liền thanh tịnh. Chúng ta mắt thấy sắc, tai nghe tiếng… sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, thảy đều đem nó để vào trong tâm thì hỏng rồi, tâm chúng ta bị ô nhiễm rồi, tâm động rồi. Tâm động liền không bình đẳng, tâm bị ô nhiễm thì không thanh tịnh. Không phải bảo chúng ta không thấy, không nghe, không phải vậy, mà thấy rồi nghe rồi nhưng không để trong tâm thì đúng. Vĩnh viễn gìn giữ thanh tịnh bình đẳng giác, hồi phục thanh tịnh bình đẳng giác của ta. Thanh tịnh bình đẳng giác chính là chân tâm, chính là Phật tâm, cái tâm đó chính là Phật. Hiện tại chúng ta có cách làm như vậy, chính là thị tâm thị Phật. Vốn dĩ là Phật, hiện tại lại làm Phật, hiện tại đem A Di Đà Phật để vào trong tâm, ngoài A Di Đà Phật ra, thảy đều không nên để vào trong tâm thì đúng, còn để vào trong tâm thì sai. Để vào trong tâm là vọng tưởng, là tạp niệm, tâm bị ô nhiễm, bị dao động, không phải giác ngộ, chỉ là mê hoặc.
Hỏi người thông thường tại vì sao không dám dùng chân tâm, không dám nói lời thành thật với người? Chẳng qua đều là vì sợ thiệt thòi, sợ phải chịu lỗ. Chúng ta học Phật để đến thế giới Cực Lạc, chúng ta không sợ lỗ, không sợ thiệt thòi. Chỉ cần chúng ta đến thế giới Cực Lạc, các thứ khác chúng ta đều không cần, vậy thì ở nơi đây thảy đều buông xả, các người cần thì ta cho hết các người, hân hoan hoan hỉ mà cho các người, không cần đến, thanh tịnh bình đẳng tâm mới có thể hiện tiền. Chướng ngại là chính ngay phía chính mình, phải chịu buông xả, chính là một câu Phật hiệu, một bộ “Kinh Vô Lượng Thọ”. 
“Bổn lai thị Phật, hiện hựu tác Phật, thị cố đương hạ tức Phật”.
Đây là thật, không phải giả. Phật không cách ly với chúng ta, không có trước sau. Không có cách ly là không có không gian, không có trước sau là không có thời gian, chính ngay tức thì.
“Trực tiệp liễu đương, phương tiện cứu cánh, kỳ đặc thù thắng, bất khả tư nghì”.
Trong chú giải của Niệm Lão, quan trọng chính là hai câu phía trước:
“cố tri thử giới nhĩ, năng niệm chi tâm, tức thị Như Lai quả giác”.
Cái đoạn này là dạy chúng ta, dùng cái tâm gì để niệm Phật,   dùng cái tâm gì để trải qua ngày tháng, dùng cái tâm gì để làm việc, dùng cái tâm gì để đối nhân xử thế tiếp vật. Nếu như bạn dùng chân tâm, liền tương ưng với Phật. Một mực dùng chân tâm, dùng thành thói quen, thì không có người nào không tin tưởng bạn, không có người nào không tôn trọng bạn, không có người nào không tán thán bạn. Bạn chân thành, bạn không lừa gạt người khác, dù người khác lừa gạt ta, ta cũng không lừa gạt người, người khác tổn hại ta, ta cũng không tổn hại người. Chân tâm là thiện tâm, thuần tịnh thuần thiện. Vọng tâm là ác tâm, là bất thiện, tự tư tự lợi, khởi tâm động niệm tổn người lợi mình, đây là việc luân hồi sáu cõi, trong luân hồi sáu cõi đây là việc của ba đường ác. Vì sao vậy? Tâm họ bất thiện. Còn như ta nơi nơi nghĩ đến đều là làm thế nào lợi ích người, làm thế nào giúp người, làm thế nào thành tựu người, đây là tâm thiện, tâm thiện sanh ba đường thiện.
Chúng ta đoạn ác tu thiện, nhưng không đem việc đoạn ác tu thiện để vào trong tâm, trong tâm chỉ để A Di Đà Phật, chỉ niệm một câu “A Di Đà Phật”. Vậy thì đúng, hoàn toàn chính xác, dùng tâm của “A Di Đà Phật” đối nhân, xử thế, tiếp vật, thì không có lý nào không sanh thế giới Cực Lạc, sẽ giống như pháp sư Oánh Kha vậy. Oánh Kha một niệm hồi chuyển, dùng chân tâm cảm, Phật đến ứng, thấy được Phật rồi, ba ngày vãng sanh. Ba ngày vãng sanh, đây là chính ông xin cam tình nguyện, ông còn có mười năm tuổi thọ mà không cần, đây là trí tuệ, lựa chọn của trí tuệ. Hôm nay thời gian hết rồi, chúng ta chỉ học đến chỗ này, A Di Đà Phật.
/30
 

  Ý kiến bạn đọc

Mã bảo mật   

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây