Tìm Kinh Sách
 
        Kinh Sách FULL

Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú giảng lần thứ 4 năm 2014

Phật sở hành xứ, quốc ấp khu tụ, mĩ bất mông hóa, thiên hạ hòa thuận, nhật nguyệt thanh minh, phong vũ dĩ thời, tai lệ bất khởi, quốc phong dân an, binh qua vô dụng, sùng đức hưng nhân, vụ tu lễ nhượng, quốc vô đạo tặc, vô hữu oan uổng, cường bất lăng nhược, các đắc kỳ sở.
Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú
(Tập 1) 
Người giảng: Lão pháp sư Tịnh Không.
Thời gian: ngày 09 tháng 03 năm 2014
Địa điểm: giảng tại Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà HongKong.
(Đây là bộ khoa chú giảng lần thứ 4 khi ngài ở độ tuổi gần 90)
Các vị pháp sư, các vị đồng tu, xin chào mọi người, xin mời ngồi. Hôm nay là ngày 09 tháng 03 năm 2014, chúng ta bắt đầu học tập “Đại Kinh Khoa Chú” lần thứ 4. Mỗi lần học tập đều giúp cho chính chúng ta hướng nâng lên trên.

 

Chương 10: Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014 - Tập 5 - Phần 2

Duyên khởi là gì?
Cái thế gian này của chúng ta gọi là “duyên khởi”, không phải “tánh khởi”. Tánh khởi chúng ta không cách gì tưởng tượng. Chúng ta sinh hoạt ở trong thế gian duyên khởi, chính là nhân duyên sanh pháp, tánh khởi không phải nhân duyên, không có nhân, cũng không cần đến duyên.
Tánh khởi là gì?
Chỗ nào gọi là “tánh khởi”? Chư Phật Như Lai sở trụ cõi nước là tánh khởi, gọi là cõi Thật Báo Trang Nghiêm, gọi là Pháp giới Nhất Chân, cái pháp giới đó là tánh khởi, không phải duyên khởi.
Tánh khởi cùng duyên khởi có cái gì khác biệt?
Hiện tượng của duyên khởi là có sanh có diệt, hiện tượng của tánh khởi là không sanh không diệt; Hiện tượng của duyên khởi có giao động, hiện tượng của tánh khởi không dao động, vĩnh viễn giống như ở trong định vậy, không dao động; Duyên khởi có ô nhiễm, có phiền não, sẽ sanh phiền não, tánh khởi không có ô nhiễm, không sanh phiền não. Vậy thì vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, ở nguyện thứ 20 trong 48 nguyện của bổn kinh có nói “đều làm A Duy Việt Chí Bồ Tát”. A Duy Việt Chí Bồ Tát chính là Đại triệt đại ngộ minh tâm kiến tánh, họ trụ là tánh khởi, không phải duyên khởi. Thế giới Cực Lạc là tánh khởi, không phải duyên khởi. Thế giới Cực Lạc có trời người, không có cõi ác, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục, bao gồm cả tu la, la sát đều không có, chỉ có hai cõi trời người, đây là cõi Phàm thánh đồng cư, còn cõi Phương Tiện thánh cư độ có bốn thánh là Thanh Văn, Duyên Giác, có Quyền Giáo Bồ Tát, đây là ở trong mười pháp giới, sáu cõi còn lại trong mười pháp giới là phàm phu là nhiễm, pháp giới bốn thánh là tịnh, là Tịnh Độ của Thích Ca Như Lai, sáu cõi là uế độ. Minh tâm kiến tánh, siêu việt mười pháp giới, ở Thật báo trang nghiêm độ của Thích Ca Mâu Ni Phật, chính là thế giới Hoa Tạng. Cho nên tu học các pháp môn khác, họ tương lai đi đến cõi nào? Chân thật tu thành công rồi khai ngộ rồi, đều sanh đến thế giới Hoa Tạng, thế giới Hoa Tạng cùng thế giới Cực Lạc không hề khác. Thế giới Hoa Tạng nương vào tự lực, pháp môn Tịnh Độ nương vào Phật lực của A Di Đà Phật, không như nhau, cho nên một cái gọi là pháp môn tự lực, Tịnh Độ gọi là pháp môn tha lực, chúng ta hoàn toàn nương vào A Di Đà Phật, thật có thể nương dựa.
Bạn phải thật tin tưởng không thể hoài nghi, nếu bạn hơi có chút hoài nghi, sau cùng vãng sanh liền biến thành chướng ngại, không thể đi được, tuyệt đối tin tưởng, không thể có chút gì hoài nghi. Tịnh Độ điều kiện thứ nhất chính là Tin, cái thứ hai là Nguyện, cái thứ ba là trì danh niệm Phật. Tín, Nguyện rất là quan trọng, có tín có nguyện chắc chắn vãng sanh, vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, còn phẩm vị cao thấp là do công phu niệm Phật sâu cạn. Công phu sâu cạn không phải là nhiều ít, công phu xem từ chỗ nào? Chính là bạn buông xả nhiều ít, công phu xem ở buông xả, bạn buông xả được càng nhiều, thì công phu càng sâu, buông xả được càng ít, thì công phu cạn. Nên phải đem cái khó buông xả nhất để ở đầu tiên, thông thường người ta nói tình chấp khó buông xả nhất, tài vật, địa vị, danh dự, loại nào là bạn ưa thích nhất, thì bạn bắt tay vào ở chỗ đó, cái khó xả nhất đều xả được, vậy các thứ khác thì dễ dàng. Không buông xả, thì thiệt thòi lớn, bị hại là chính mình, không phải người khác. Tôi xem thấy Lão Hòa Thượng Hải Hiền, tôi có tâm cảnh giác rất cao, phải học tập với Ngài, học Ngài cái gì? Triệt để buông xả, có cũng như không có. “Tư sanh chi cụ”, chính là thứ đời sống cần phải dùng đến càng ít càng tốt. Người xuất gia ba y một bát, đó là ở Ấn Độ, ở vùng nhiệt đới, từ đầu năm đến cuối năm, ba chiếc y đầy đủ rồi. Cho nên đời sống của người xuất gia đơn giản, không có bất cứ thứ gì, dưới gốc cây ngủ một đêm, nửa ngày ăn một bữa, vật dụng sống riêng nhiều rồi chính là tích chứa, gia nghiệp này lớn quá rồi không thể buông xả, nhất định phải biết được đó là giả, không phải là thật.
Trong Kinh Lăng Nghiêm Phật nói rất hay, cả thảy cái vũ trụ này của chúng ta, rốt cuộc là như thế nào? Ở trên kinh Phật nói những thứ này thảy đều là “tự tâm hiện lượng”. Bạn xem câu nói này nói hết rồi, là hiện tượng trong tâm của chính mình biến hiện ra, chính là tất cả pháp từ tâm tưởng sanh. Tâm phức tạp như vậy, phiền phức như vậy, không có quan hệ, toàn là giả, không phải là thật, biết được chân tướng sự thật, tự nhiên liền không để trong tâm, có cũng như không có. Ta có người khác mang đi dùng rồi, không luận dùng phương pháp gì mang đi, ta phải có thái độ thế nào? Vốn dĩ không có, vốn dĩ không phải của ta, không có thì chẳng phải không việc gì rồi sao? Tâm bình khí hòa, an vui tự tại. Còn như cho là của ta nên ta thường hay nhớ lấy, vậy thì sai rồi, cái niệm này là gì? Niệm luân hồi, niệm sáu cõi, niệm mê hoặc điên đảo. Phải học buông xả, sau khi buông xả thì tự nhiên bạn liền nhìn được thấu, trí huệ liền hiện tiền, là tánh khởi. Chúng ta phải quay về tánh khởi, không nên lưu luyến duyên khởi, duyên khởi toàn là giả.
“sở dĩ giả hà, phi thiểu nhân duyên, thành đẳng chánh giác, xuất hưng ư thế”[21],
Không phải nhân duyên ít, là nhân duyên vô lượng không thể nghĩ bàn để Phật xuất hiện ở thế gian này. Nghĩ đến Phật nhất định nghĩ đến chính mình, vì sao vậy? Chính mình cùng Phật là một không phải hai, Ngài đã giác ngộ rồi, Ngài buông xả rồi, ta vẫn chưa buông xả, ta vẫn chưa giác ngộ. Ngày nay Ngài biểu diễn, vì chúng ta thị hiện một con đường quay về tự tánh, con đường thành Phật, chúng ta phải tình nguyện đi con đường này, y theo Ngài như vậy, y giáo phụng hành ngay trong một đời chắc chắn thành tựu, không nên đợi đời sau.
Vậy trước tiên phải buông xả “đây là ta, đó là anh, kia là anh ấy”. Cái quan niệm này không tốt, cái quan niệm này không thể đi được, không tương ưng với thế giới Cực Lạc.
Bạn xem Ngài Hải Hiền nói với người khác “chỉ có niệm A Di Đà Phật là thật, còn cái thế giới này cái gì cũng đều là giả, không có thứ nào là thật”. Đại sư Vĩnh Gia nói “trong mộng rõ ràng có sáu cõi, khi giác rồi không không cả đại thiên”. Chúng ta phải giác, không nên mộng nữa, ở trong mộng tỉnh lại rồi, xem thấy lão hòa thượng Hải Hiền như vậy, chúng ta phải tỉnh ra, không nên vậy nữa. Ta tu hành tại vì sao không thể giống được như Ngài vậy? Vì ta cái này cũng muốn cái kia cũng muốn, cái này cũng cần cái kia cũng cần, hỏng chính ngay chỗ này. Chỗ cao minh của Ngài là không muốn bất cứ thứ gì, cũng không cần bất cứ thứ gì, tất cả tùy duyên, có duyên là làm lợi ích chúng sanh, biểu pháp, không có duyên không làm, không đi phan duyên, vậy thì tốt.
Chúng ta vào những năm gần đây, biết được sự việc này, sự việc này là tiến sĩ Thang Ân Tỷ nêu ra, sau khi chúng ta nghe rồi càng nghĩ càng chân thật, sự việc gì vậy? Thế kỷ trước năm 1970, niên đại 1970, khi ông đến thăm Nhật Bản, cùng Trì Điền Đại Tác nói chuyện đến việc cứu vãn xã hội của thế kỷ 21, ông nói “chỉ có học thuyết Khổng Mạnh cùng Phật pháp đại thừa”. Tôi xem thấy câu nói này ở trên sách, hoàn toàn chính xác, tôi không chút hoài nghi nào. Thế nhưng người hoài nghi câu nói này thì nhiều, người tin tưởng gần như không có. Chúng tôi đem sự việc này làm báo cáo trong Đại Hội Liên Hiệp Quốc, làm báo cáo rất nhiều lần, sau khi hội nghị kết thúc, những hội hữu này cùng nhau dùng cơm nói chuyện, mọi người đều rất khách khí đối với tôi, “pháp sư Ngài nói rất hay, đây là lý tưởng, không thể làm được”. Câu nói này làm cho tôi giựt thót mình, thế là tôi lại bình lặng mà tư duy, ngày nay toàn thế giới xảy ra vấn đề, vấn đề xảy ra ở chỗ nào tôi biết rồi, xảy ra ở lòng tin, chính là không có lòng tin, mọi người không tin tưởng.
Tôi năm 2005-2006, hai lần đến thăm viếng nước Anh, tôi nghe nói Luân Đôn là Trung tâm Hán Học Âu Châu, có đại học Kiếm Kiều, Neuten, Luân Đôn, tôi đều đến thăm, cùng giao lưu với sinh viên khoa Hán học của họ, giao lưu với giáo thọ của họ. Câu đầu tiên tôi hỏi họ, tôi rất bội phục họ, họ đều nói tiếng Bắc Kinh, toàn là người nước ngoài, tiếng Bắc Kinh nói được rất tốt, tôi nói các vị học ngôn ngữ văn tự của Trung Quốc, phải dùng bao nhiêu thời gian? Ba năm! Tôi ở Hoa Kỳ thăm viếng Đại Học Nữu Ước, nơi đó có khoa Trung văn, tôi cũng hỏi sinh viên nơi đó, họ cũng là học ba năm. Trung văn không khó, tại vì sao hiện tại trở thành khó như vậy? Mọi người có biết được nguyên nhân ở đâu không? Không có lòng tin, người nước ngoài học được, họ có lòng tin thì họ không khó, còn chúng ta không có lòng tin, người nước ngoài đem nó xem thành một loại ngoại ngữ để học tập, họ không có cảm giác khó khăn, người Trung Quốc chúng ta không đem nó xem thành loại ngoại ngữ để học tập, không đem nó xem thành ngoại văn, vậy xem thành cái gì? Thời thời đại xưa đã qua rồi, không có thứ này. Vậy thì khó rồi, đánh mất đi lòng tin.
Tiếp theo tôi lại hỏi “tôi rất quan tâm tới Ngài Thang Ân Tỷ ở Luân Đôn, chắc các vị và mọi người đều biết ông ấy, tôi chưa gặp mặt ông ấy nhưng tôi tin tưởng các vị rất nhiều người đã gặp mặt ông”. Sau đó tôi liền nói lời của ông ấy đã nói ra, sau khi nói xong tôi liền hỏi “các vị có tin tưởng không?” Không có người nào trả lời tôi, họ đều nhìn vào tôi cười. Tôi lại hỏi lại họ “lẽ nào lời nói của tiến sĩ Thang Ân Tỷ nói sai rồi sao?” Cũng không có người trả lời. Tôi chờ rất nhiều phút, nhưng mọi người mặt đều đang cười. Sau cùng trong lòng tôi nghĩ, lẽ nào họ không tin tưởng? Đạo lý thánh hiền thật tốt, vậy tại vì sao người Trung Quốc chính mình không học? Bỏ mất đi thứ của chính mình, rồi toàn bộ đi học của nước ngoài, nếu tôi ở vào địa vị những người nước ngoài này tôi cũng sẽ hoài nghi. Sau cùng tôi nói với họ“nếu như anh đem câu nói này của tôi hỏi lại tôi, tôi có thể nói với anh, tôi hoàn toàn khẳng định rằng tôi tin tưởng tuyệt đối, không có hoài nghi”.
Tại vì sao người Trung Quốc không cần? Người Trung Quốc đã lơ là đi giáo học này hai trăm năm rồi. Hai trăm năm trước là vào cuối triều Mãn Thanh hủ bại, khoa học ở Âu Châu được phát triển rất nhanh, nên người Trung Quốc xem thấy một số cơ khí mới của người nước ngoài thì ưa thích, cái thứ đó tốt, mê ở trong đó, hoàn toàn bỏ mất đi thứ của chính mình, cho rằng thứ của chính mình là lạc hậu, không phù hợp, không theo kịp thời đại, thảy đều không cần đến. Sai rồi! Chúng ta xem thấy cái hiện tượng này rất là cảm khái đối với tiên sinh Tôn Trung Sơn, nếu tiên sinh Tôn sống thêm mười năm, Trung Quốc không phải giống như ngày hôm nay. Ông chết quá sớm, ông có đoạn lời nói này trong Hội nghị lần thứ tư “những khoa học tiên tiến của các quốc gia trên toàn thế giới, họ chỉ có một thứ tốt hơn chúng ta, chúng ta không bằng họ. Đó là gì? Cơ khí! Ngoài thứ này ra, các thứ khác chúng ta siêu vượt hơn họ”. Chúng ta vào lúc đó một số thanh niên ra nước ngoài du học, mê vào cơ khí, đem những thứ của lão tổ tông chúng ta (đương nhiên chưa có thâm nhập, học được không đủ độ sâu) thảy đều bỏ mất hết, tạo thành ảnh hưởng của toàn thế giới ngày nay, mà không phải chỉ là riêng một quốc gia của chính chúng ta.
Thang Ân Tỷ nhận biết, rõ ràng biết được giá trị của nó rằng không có một quốc gia nào trên toàn thế giới có thể so sánh được, đặc biệt là văn ngôn văn, văn tự. Ông cùng La Tố đều nói đến sự đặc biệt của văn tự này của chúng ta “nó siêu vượt thời không”, bạn học được văn ngôn văn. Ông nêu lên một thí dụ: Khổng Tử 2500 năm trước, xuất hiện vào thời đại này, nếu người thời đại này cũng hiểu được văn ngôn văn thì họ câu thông đều không có chút vấn đề nào. Thế nhưng dùng văn tự của ngữ âm mà nói (chính là văn tự của ngữ tâm là quyết định không làm được), họ đại khái hơn hai trăm năm thì thay đổi rồi, những gì viết ra đó người sau xem không hiểu, còn văn tự này của chúng ta thì thật tốt, nó vĩnh hằng không thay đổi, không bị không gian khống chế, không bị thời gian hạn chế, ngàn đời vẫn mới. Đó là trí tuệ chân thật, cái trí tuệ này tổ tiên nhân loại, lý niệm, phương pháp, kinh nghiệm, đều gìn giữ trong văn tự chúng ta. Bộ “Tứ Khố Toàn Thư” của chúng ta chính là bảo tàng trí tuệ của nhân loại, nó có thể cứu thế giới, có thể cứu quốc gia dân tộc, vậy thì tại vì sao không học? Thang Ân Tỷ vào lúc đó tuổi tác đã cao, khi ông nói những lời nói này đã 82 tuổi, ông 85 tuổi thì qua đời. Sau ba năm thì ông đã ra đi, cái hiện tượng động loạn của cái thế giới này ngày nay, ông hoàn toàn biết được, vào ba bốn chục năm trước ông đã thấy ra. Hiện tại chúng ta cũng dần dần tỉnh ra, cũng đã xem trọng đối với văn hoá truyền thống, đây là hiện tượng tốt, hy vọng mỗi năm có tiến bộ, không thể thoái lui. Những quốc gia chung quanh chúng ta, từ cuối năm ngoái đến tháng giêng đầu năm nay cũng đã bắt đầu quan tâm đến điều này của nước chúng ta. Inđônêxia, các bạn đã đến bên đây thăm viếng năm lần:
Lần thứ nhất là Bộ Giáo Dục của Indo gồm quan viên giáo dục chủ quản trung tiểu học, quan viên cao cấp, quản lý trường trung tiểu học toàn quốc, đến thăm viếng tôi, nói với tôi Indo chuẩn bị xúc tiến toàn quốc đưa “Đệ Tử Qui” vào trong giáo trình học tập của trường trung tiểu học, việc làm này khó được, tháng 7 năm nay bắt đầu. Nửa năm trước họ đã đến, họ nói với tôi, trước tiên “Đệ Tử Qui” đã phiên dịch thành văn  tự Indo, lần này họ đến tôi khuyên họ đem đĩa của thầy Thái có giảng tỉ mỉ “Đệ Tử Qui” bốn mươi giờ, phần giáo trình này cũng phải dịch thành văn tự Indo, hiện tại cũng sắp phiên dịch xong rồi. Khi họ đến lần thứ ba đến, dường như là Phó cục trưởng của Bộ Tôn Giáo đến thăm viếng (ông cũng là quản lý về giáo dục) nói đã phiên dịch được 80% rồi, họ mang đến cho tôi xem. Theo tôi dự tính thì gần đây có thể họ đã hoàn toàn dịch xong. Trường trung tiểu học của Indo rất nhiều, muốn dạy giáo trình này. Tôi nói bộ giáo dục cần phải thành lập một lớp bồi dưỡng sư chất “Đệ Tử Qui”, bồi dưỡng thầy giáo. Việc bồi dưỡng thầy giáo chúng ta có thể giúp họ, tôi sẽ mời thầy Thái qua bên đó dạy tốp đầu tiên, bởi vì lớp này là lớp ngắn hạn, chỉ có học giáo trình như vậy, số lượng không nhiều, phải mất bốn tháng đến năm tháng thì cái lớp này có thể kết thúc. Một năm có thể dạy hai lớp. Tôi nói “tốp thứ nhất chúng tôi giúp anh bồi dưỡng sư chất, đến lớp thứ hai thì các vị tự mình đã có người dạy”. Họ cần phải có số lượng lớn thầy giáo, vì trường học của họ quá nhiều, trường trung tiểu học toàn quốc cũng sắp gần 150 ngàn trường. Bạn xem một trường học một thầy giáo thì đến 150 ngàn người, hai thầy giáo là 300 ngàn người. Đây là một quốc gia Hồi Giáo rất lớn trên địa cầu, nhân khẩu họ có hai ức ba ngàn vạn, nên đây là một công trình dài lâu, chân thật bồi dưỡng thầy giáo ưu tú nhất, nói với tôi sự việc này, việc này tôi không hề nghĩ đến, quốc gia Hồi Giáo, thật không thể tưởng tượng.
Lần thứ hai thăm viếng là Đại học, hiệu trưởng đại học Hồi Giáo đến thăm viếng, nói với tôi rằng “trường học chuẩn bị xây một thư viện “Tứ Khố Toàn Thư”, mở Viện Hán Học”. Đây cũng là việc mà tôi không hề nghĩ đến. Tôi cũng kiến nghị từ bối cảnh xã hội hiện tiền bức thiết nên Viện Hán Học cần khóa trình học tập trước là “Quần Thư Trị Yếu”  65 loại nguyên bản, mở 65 môn khóa trình này. Trường học họ định ra phương pháp, tôi xem qua phần tổng thể, thật là hy hữu khó được, học sinh nghiên cứu Hán học đều là công phí, không cần phải nộp học phí, hơn nữa còn cung cấp ăn ở, có học vị, học vị Tiến sĩ, học vị Thạc sĩ, học vị Bác sĩ, việc này thật không thể tưởng tượng được. Tôi hỏi “phí dụng đó từ đâu mà có?” Tạ Hội Trưởng của Tịnh Tông Học Hội cùng đến với ông ấy, ông nói “việc này do các nhà xí nghiệp Hoa Kiều chúng ta phụ trách”, cũng chính là nói một xí nghiệp tài trợ cho mấy người. Tôi nói việc này tốt, việc làm này vô cùng hy hữu, khó được;
Lần thứ ba là phu nhân của Ngõa Bố Đức, phu nhân tổng thống tiền nhiệm dẫn theo một số bạn bè cũ, đại đa số tôi đều quen biết;
Lần thứ tư là Phó Bộ Trưởng Bộ Tôn Giáo;
Lần thứ năm Hiệu trưởng trường Đại học lại đến, hai phó hiệu trưởng cũng cùng đến. Ba người cùng nhau đến nói với chúng ta phải thật làm. Họ mời tôi tham gia làm lễ động thổ xây thư viện Tứ Khố của họ, mong muốn tôi đi một chuyến.
Indo cái quốc gia này, ngày trước tôi đại khái trước sau đã đi qua sắp gần 20 lần, cho nên rất nhiều người trong quốc gia đó đều quen biết tôi. Thật là vô cùng hiếm có, đây là việc mà tôi không hề nghĩ đến. Nghiên cứu Hán học phải có lối đi, họ có thể chân thật lấy được học vị Tiến sĩ Hán học, tương lai ở trong đại học dạy Trung văn. Trên thế giới tôi nghĩ đến, tương lai rất nhiều trường đại học nước ngoài đều sẽ có khoa Trung văn, đều muốn học tập thứ văn cổ điển của chúng ta, đó là nơi này là vì toàn thế giới, Hán học bồi dưỡng thầy giáo. Đây là việc tốt, nó dẫn đầu mở lớp trước tiên, đây là việc mà chúng ta phải nên quan tâm đến, đây đều là nhân duyên, nhân duyên của văn hoá truyền thống chúng ta, bao gồm “Nho, Thích, Đạo”. Trung tâm Hán học là “Nho-Thích-Đạo”, bảo tàng tư liệu của chúng ta chính là “Tứ Khố Toàn Thư”, cùng “Tứ Khố Hội Yếu”, tinh hoa của tinh hoa chính là “Quốc Học Trị Yếu”, “Quần Thư Trị Yếu”.
“Quốc Học Trị Yếu” là học thuật, “Quần Thư Trị Yếu” phần nhiều là chính trị, trong đó có “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, đó là đem cổ thánh tiên hiền nhiều đời, trí tuệ, lý niệm, phương pháp, kinh nghiệm, thảy đều viết vào trong “Quần Thư Trị Yếu”. Đây là bức thiết cần yếu ngay trước mắt, toàn thế giới mỗi một quốc gia mỗi một quần thể đều cần đến. Nhà xí nghiệp Tô Châu, xí nghiệp Cố Đắc, dùng văn hoá truyền thống giáo hóa công nhân đều nhận được hiệu quả rất tốt. Tôi kiến nghị bằng hữu Indo đến bên đó tham quan. Họ thăm qua xem thấy rất là cảm động, họ nói sau khi trở về nhất định phải mời Tổng thống của họ đến Tô Châu để khảo sát, để học tập. Việc này thật không thể tưởng tượng được. Người nước ngoài làm nhiều, tôi tin tưởng trong nước chúng ta một số lãnh đạo sẽ chú ý đến vấn đề này, họ thật có thể giải quyết vấn đề, thật có hiệu quả tốt đẹp.
Chúng ta xem tiếp phía sau: “sở dĩ giả hà?” Đây là một câu hỏi “vì sao vậy?” Không phải nhân duyên ít mà là nhân duyên nhiều “thành đẳng chánh giác xuất hưng ư thế”. “dỉ thập chủng, vô lượng vô số bách thiên A Tăng Kỳ nhân duyên, thành đẳng chánh giác xuất hưng ư thế”[22]:
Cái số tự này là số tự thiên văn, là chân thật không phải là giả. Lấy Phật Thích Ca làm thí dụ, y theo Trung Quốc từ xưa đến nay những cao tăng đại đức này các Ngài đã ghi chép, Thích Ca Mâu Ni Phật nhập diệt đến ngày nay là ba ngàn lẻ bốn mươi mốt năm (3.041), người nước ngoài nói thì hơn hai ngàn năm trăm năm (2.500), vậy là ghi chép của Trung Quốc thì nhiều hơn sáu trăm năm (600). Việc này không quan trọng gì, đều là có căn cứ, chúng ta viết có căn cứ: Thích Ca Mâu Ni Phật ra đời năm Châu Chiêu Vương thứ 24, diệt độ là năm Châu Mục Vương thứ 52. Như vậy Thế Tôn Ngài trụ thế theo người Trung Quốc nói 80 năm, Trung Quốc tính hư tuổi, người nước ngoài nói 79 năm. Sau khi Ngài khai ngộ, liền bắt đầu dạy học, dạy hết một đời, giảng kinh dạy học 49 năm, ảnh hưởng của 49 năm này về không gian ảnh hưởng cả địa cầu, còn về thời gian ảnh hưởng mười hai ngàn năm (12.000). Y theo cách nói của người Trung Quốc, hiện tại là thời “mạt pháp” của Thích Ca, Ngài “chánh pháp” một ngàn năm, “tượng pháp” một ngàn năm, “mạt pháp” mười ngàn năm. Mười ngàn năm này, một ngàn năm thứ nhất đi qua rồi, hiện tại là bắt đầu một ngàn năm thứ hai, được 41 năm, bao nhiêu người bị ảnh hưởng? Chúng ta có thể thấy được, chúng ta không thấy được thì không thể không thừa nhận. Phật pháp gọi là sáu cõi luân hồi, gọi là mười pháp giới, đây không phải là một loại học thuyết, mà đây là chân tướng sự thật. Phật từ chỗ nào mà nhìn? Từ trong định. Cho nên người chân thật tu hành được định, Ngài có thể đột phá không gian duy thứ, có thể qua lại với người ở các tầng không gian khác, đây không phải là giả, phát hiện là nhân gian chúng ta bị ảnh hưởng Thích Ca Mâu Ni Phật, người không gian duy thứ khác bị ảnh hưởng Thích Ca Mâu Ni Phật càng nhiều, còn nhiều hơn so với người trên địa cầu chúng ta.
Cho nên vô lượng nhân duyên, “thành đẳng chánh giác xuất hưng ư thế, nãi chí quảng thuyết như thị đẳng vô lượng nhân duyên, duy vi nhất đại sự nhân duyên, đại sự nhân duyên giả hà, duy dục chúng sanh khai thị Phật tri kiến cố”[23],
Phía sau “phù Hoa Nghiêm Kinh, nãi Thế Tôn tối sơ sở sáng ngôn, Pháp Hoa Kinh, nãi mạt hậu, chi thùy giáo, tự thỉ chí chung, duy vi thử, đại sự nhân duyên, dục linh chúng sanh, khai thị ngộ nhập Phật chi tri kiến”[24],.
Đây không phải là giả, Thích Ca Mâu Ni Phật khai ngộ minh tâm kiến tánh, làm ra báo cáo với mọi người. Kiến tánh, tánh là thế nào? Tánh khởi lên tác dụng gì? nói ra một bộ “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh”;
Đại Sư Huệ Năng khai ngộ rồi, Ngài chỉ nói ra hai mươi chữ, hai mươi chữ này chúng ta không nên xem nhẹ, vì sao vậy? Vì cùng với “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh” mà Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói không hề khác nhau, đơn giản mà nói chính là hai mươi chữ mà Đại Sư Huệ Năng nói với chúng ta “nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, vốn không sanh diệt, vốn tự đầy đủ, vốn không dao động, năng sanh vạn pháp”. Một bộ “Kinh Hoa Nghiêm” cũng là nói hai mươi chữ này, nói tỉ mỉ, nói được rất tường tận, nội dung hoàn toàn giống nhau.
Cho nên sau khi khai ngộ Thích Ca có thể nói pháp 49 năm, Đại Sư Huệ Năng có thể làm được như vậy hay không? Đương nhiên có thể, không hề khác nhau. Thế nhưng thời đại không như nhau, thời cuộc không như nhau, chúng sanh căn tánh không như nhau, cho nên Phật có thể ở Ấn Độ năm thời thuyết giáo, còn Đại Sư Huệ Năng ở vào lúc đó, chỉ có thể hưng khởi Thiền tông, để Đạt Ma Tổ sư truyền đến nói pháp. Phương pháp tu hành của tông phái này, ở Trung Quốc gọi là “đại hành kỳ đạo”, người y giáo tu hành vượt xa hơn Ấn Độ.
Hiện tại Ấn Độ Phật giáo không còn, không tìm ra. Phật giáo chỉ có ở chúng ta, Phật giáo chúng ta một trăm năm này bị suy, kinh giáo không có người học tập, thiền, luật cũng không có người học tập. Chúng ta vô cùng cảm ân Lão Cư Sĩ Lý Bỉnh Nam có một học trò phát tâm truyền luật tông, pháp sư Quả Thanh, xuất gia ba mươi năm như một ngày. Đây là gốc của Phật pháp, không có giới luật thì không có Phật pháp, Phật pháp không phải nói miệng, là phải nỗ lực mà thực tiễn, mà áp dụng, từ ngay trong thực tiễn bạn có chỗ ngộ, đó là chân thật. Cho nên vô cùng khó được, hy vọng đời sau, đặc biệt là đệ tử Phật xuất gia, xem trọng giới luật, chăm chỉ học tập, đem tâm bệnh đã tích tập hơn 100 đến nay thảy đều phải cải sửa, thì Phật pháp mới có thể hưng vượng.
Phương pháp học tập vẫn là phải chuyên công một môn, không nên làm quá nhiều, không nên quá tạp. Một môn cầu cái gì? Cầu được Tam muội, cầu khai ngộ, chính là “một môn thâm nhập, trường kỳ huân tu”, đây là quan niệm lý luận học tập. Phương pháp thì sao “sách đọc ngàn lần, nghĩa kia tự hiểu”. Tự kiến chính là khai ngộ, không có lão sư dạy bạn, chính mình khai ngộ. Chính mình khai ngộ tuyệt đối sẽ không sai. Vì sao vậy? Kinh có thể làm chứng minh, bạn sở ngộ toàn là những điều trên kinh đã nói, vốn dĩ xem không hiểu, hiện tại thảy đều hiểu, không có chướng ngại. Phật giảng kinh là khai ngộ rồi mới giảng kinh, ngày nay bạn khai ngộ rồi là cùng cảnh giới với Phật, làm gì có lý nào không hiểu? Cho nên phải dùng phương pháp cũ, đi con đường khai-thị-ngộ-nhập, đi con đường Giới-Định-Huệ tam học, nhân giới được định, nhân định khai huệ. Giới ở đây là qui củ, một môn thâm nhập là giới,  trường kỳ huân tu là giới, đọc sách ngàn biến là giới. Bạn xem thấy cái thí dụ này ở trước mắt, Lão Hòa Thượng Hải Hiền chỉ một câu Nam Mô A Di Đà Phật, niệm hết 92 năm, Ngài khai ngộ rồi, Ngài có được niệm Phật Tam Muội hay không? Khẳng định, Ngài khai ngộ vậy thì tại vì sao không giảng kinh? Duyên chưa chín muồi, sanh vào thời đại không như nhau, nếu Ngài sanh vào thời đại của Thích Ca, Ngài sẽ giảng kinh dạy học, nếu Ngài sanh vào thời đại của Lục tổ, Ngài cũng có thể đại hoằng thiền tông, nhưng Ngài sanh vào thời đại ngày nay. Cái thời đại này ngày nay, dùng loại phương pháp này khế hợp cái thời đại này, nếu bạn người học Phật đều học Ngài, tôi tin tưởng chính phủ vô cùng hoan nghênh, vô cùng ủng hộ.
Cho nên Đại Sư Ấn Quang dạy bảo chúng ta, ở vào thời đại của chúng ta phải xây đạo tràng nhỏ, người đồng tu, người thường trụ, không nên vượt quá hai mươi người, đạo tràng nhỏ, dễ dàng sinh hoạt, chính phủ cũng yên tâm, các vị sẽ không gây rối, các vị người ít, tuyệt đối không tụ chúng, một cái chùa nhỏ, một cái đạo tràng nhỏ, chuyên công một bộ kinh, tốt! Phật giáo đại thừa chúng ta có tám tông phái, hơn một trăm bộ kinh luận thảy đều có thể hưng vượng lên. Không thể xen tạp, không thể lộn xộn, đều phải được định khai tuệ, nên dùng cái này làm phương pháp giáo học, nước ngoài họ mở Viện Hán Học, trong Viện Hán học có “Nho-Thích-Đạo”, đây là Hán học. Cho nên người xuất gia có thể đến học cái trường học này, có thể lấy được học vị, đạo trưởng tu đạo ông cũng có thể bước vào cái trường này, vô cùng khó được, đại học là đại học của của X-Lam giáo. Tôi vào năm xưa khi Ngõa Bố Đức còn ở đời, trường Đại học này tặng cho tôi một học vị Tiến sĩ, có chụp một tấm hình, mặc áo màu xanh, chính là cái đại học Hồi Giáo này. Họ xây dựng cái Viện Hán học này, xây thư viện Tứ Khố, cũng là ngày trước tôi mua rất nhiều sách, tôi tặng cho họ mười bộ “Tứ Khố Toàn Thư”, mười bộ “Tứ Khố Hội Yếu”. Mười bộ phải chiếm gian phòng rất lớn, như cái phòng này chỉ có thể để một bộ, có mười cái gian phòng như vầy, phải cần cái chỗ lớn như vậy. Cho nên họ cần phải xây một cái, đây chính là một cái thư viện chuyên, cũng chính là thư viện chuyên môn của sách cổ chúng ta. Cho nên khi hiệu trưởng đến đây tôi rất hoan hỉ, cũng chính là một tuần lễ trước, đây là lần thứ năm đến, nhiệt tâm như vậy. Họ muốn tôi đến tham gia động thổ, tôi không thể không đi.
Chúng ta xem “Hoa Nghiêm” cùng “Pháp Hoa”, “từ thỉ đến chung” chính là vì đại sự nhân duyên này “khai thị ngộ nhập tri kiến Phật”. Học Phật nhất định phải nắm lấy câu nói này, Phật khai thị đối với chúng ta, còn chúng ta chính mình phải có thể ngộ nhập, nếu không, khai thị của Phật thành uổng phí, thì Phật không giảng khai thị, vì sao vậy? Vì không có người ngộ nhập.
Ngộ nhập cần điều kiện gì?
Đại Sư Ấn Quang nói được rất hay, nói được rất nhiều “một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích”. Thế là chúng ta liền biết được, phải tâm chân thành, phải tâm cung kính. Xem bạn có mấy phần chân thành cung kính, thì bạn có thể được mấy phần lợi ích, chắc chắn có phần tương xứng.
Tôi còn thêm thanh tịnh, phải dùng tâm thanh tịnh, tâm không thanh tịnh không thể được lợi ích. Vậy muốn thanh tịnh chỉ có học một thứ, không thể học rất nhiều. Tôi ngày trước cũng học được rất nhiều rất tạp, hiện tại thảy đều buông xả, chỉ một bộ “Kinh Vô Lượng Thọ” này, chỉ một bộ Chú giải của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ này. Nếu tôi không nỗ lực học tập, không nỗ lực phân hưởng với mọi người, thì tôi có lỗi với cụ Hoàng. Chúng tôi cuối đời mới quen biết, chí đồng đạo hợp. Khi lão cư sĩ Ngài còn tại thế, tôi mỗi năm chí ít đến Bắc Kinh ba lần, chính là đi thăm ông. Những bạn cũ trong nước đều không còn, trẻ tuổi thì đều không quen biết. Ngày trước lão cư sĩ Triệu Phác Sơ, lão pháp sư Minh Sơn, pháp sư Minh Triết của Thanh Đảo, lão hòa thượng của Cửu Hoa đều rất quen, hiện tại những lão nhân này thảy đều vãng sanh hết rồi, trong nước biến thành xa lạ, hiện tại chính mình cũng già rồi, nơi nào cũng không muốn đi.
Tới tháng 5 này, Pari cái hoạt động này cũng là tôi xúc tiến, tôi không đi tham gia, quá mệt rồi. Hiện tại chân thật là già rồi, chính là người không muốn động. Người vẫn ưa thích hoạt động, họ vẫn chưa già, đến khi không muốn động thì thật già rồi. Cho nên phải niệm Phật, việc này quan trọng, phải cầu vãng sanh. Lão Hòa Thượng Hải Hiền là một tấm gương tốt cho chúng ta, không cần người trợ niệm, vãng sanh cũng không cần người biết, không có bất cứ quấy nhiễu nào, một mình tự tự tại tại mà ra đi, cái điểm này rất quan trọng, rất đáng được học tập.
Hôm nay thời gian hết rồi, chúng ta học đến chỗ câu sau cùng này: “diệc tức dục nhất thiết chúng sanh khai minh bổn tâm, đồng Phật tri kiến, đẳng thành chánh giác dã”[25].
 A Di Đà Phật.

 
[1] Thứ nhất là nhân duyên khiến cho giáo pháp phát khởi; thứ hai là Thể và Tánh của bản kinh này; thứ ba là Tông và Thú của kinh; thứ tư là phương tiện lực dụng; thứ năm là căn tánh được tiếp độ bởi bản kinh này; thứ sáu là kinh này thuộc về tạng nào và giáo nào? thứ bảy là bộ loại sai biệt, thứ tám là phiên dịch, hội tập, trích lục phân đoạn, giải thích. Thứ chín là tức là giải thích đề mục bản kinh. Đoạn cuối cùng là bắt đầu giải thích kinh văn, mới chân thật nói đến kinh văn.
[2] kính cẩn giải thích kinh này tuân theo cách của tông Hoa Nghiêm và thể lệ của bộ Di Đà Sớ Sao, chia nội dung tổng quát thành mười môn
[3] chín môn trước là luận định chung về cương lĩnh, tông chỉ, bộ loại của cả bản kinh, điều này cũng giống như phần năm tầng huyền nghĩa của tông Thiên Thai, khác biệt chỉ là đôi chút;
[4] nói chung, đem cương yếu của toàn bộ bản kinh luận định chung ở đầu sách, nêu bày sáng tỏ,
[5] khiến cho độc giả trước hết nhận biết tổng thể, sau đó nghiên cứu kinh văn, cái lưới giơ lên, các mắt lưới căng ra, sẽ dễ lãnh hội
[6] “Minh” là nói rõ, “đại giáo” là Đại Thừa. Tịnh Tông thuộc Đại Thừa. Lý do vì sao  Tịnh độ pháp môn pháp hưng khởi.  
[7] Giáo khởi nhân duyên là nói rõ nhân duyên khiến cho đại giáo hưng khởi
[8] Trước hết, nêu rõ sự hưng khởi của giáo pháp Đại Thừa và pháp môn Tịnh Độ
[9] Tiếp theo trình bày cặn kẽ nhân duyên khiến cho kinh này xuất hiện
[10] Hết thảy các pháp chẳng lìa nhân duyên, Đại giáo được hưng khởi bởi vô lượng nhân duyên.
[11] Nhưng, vô lượng nhân duyên chỉ là một đại sự nhân duyên
[12] Chư Phật Thế Tôn chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong cõi đời;
[13] Cho đến rộng nói vô lượng nhân duyên như thế, chỉ là một đại sự nhân duyên. Đại sự nhân duyên gì vậy? Chỉ vì muốn khai thị tri kiến của Phật cho chúng sanh
[14] Chỉ vì muốn khai thị tri kiến của Phật cho chúng sanh
[15] cũng là muốn cho hết thảy chúng sanh khai minh bổn tâm, có cùng tri kiến như Phật, cùng thành Chánh Giác
[16] Chư Phật Thế Tôn chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong cõi đời, chỉ nhằm dùng tri kiến của Phật để chỉ bày, khiến cho chúng sanh khai ngộ.
 
[17] Cha con có quan hệ thân thiết, vợ chồng có trách nhiệm khác nhau, vua tôi có nghĩa, lớn nhỏ có tôn ty thứ tự, bạn bè giữ chữ tín
[18] Đạo nghĩa thường hằng
[19] trong Phẩm Tánh khởi của kinh Hoa Nghiêm có câu
[20] tánh khởi chánh pháp chẳng thể nghĩ bàn
[21] Vì sao vậy? Chẳng phải do đôi chút nhân duyên mà [Phật] thành Đẳng Chánh Giác, xuất hiện trong cõi đời
[22] mười thứ vô lượng, vô số, trăm ngàn A-tăng-kỳ nhân duyên mà (Phật) thành đẳng chánh giác xuất hiện ở cõi đời
[23]Cho nên vô lượng nhân duyên, (Phật) thành đẳng chánh giác xuất hiện ở đời, cho đến rộng nói vô lượng nhân duyên như thế, chỉ là một đại sự nhân duyên. Đại sự nhân duyên gì vậy? Chỉ vì muốn khai thị tri kiến của Phật cho chúng sanh
[24] Kinh Hoa Nghiêm là do đức Thế Tôn đã nói ra đầu tiên, kinh Pháp Hoa là lời dạy lúc sau cùng từ đầu đến cuối, chỉ vì một đại sự nhân duyên này: Muốn làm cho chúng sanh khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật
[25] cũng là muốn cho hết thảy chúng sanh khai minh bổn tâm, có cùng tri kiến như Phật, cùng thành Chánh Giác

 
/30
 

  Ý kiến bạn đọc

Mã bảo mật   

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây