Phật sở hành xứ, quốc ấp khu tụ, mĩ bất mông hóa, thiên hạ hòa thuận, nhật nguyệt thanh minh, phong vũ dĩ thời, tai lệ bất khởi, quốc phong dân an, binh qua vô dụng, sùng đức hưng nhân, vụ tu lễ nhượng, quốc vô đạo tặc, vô hữu oan uổng, cường bất lăng nhược, các đắc kỳ sở.
Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú
(Tập 1)
Người giảng: Lão pháp sư Tịnh Không.
Thời gian: ngày 09 tháng 03 năm 2014
Địa điểm: giảng tại Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà HongKong.
(Đây là bộ khoa chú giảng lần thứ 4 khi ngài ở độ tuổi gần 90)
Các vị pháp sư, các vị đồng tu, xin chào mọi người, xin mời ngồi. Hôm nay là ngày 09 tháng 03 năm 2014, chúng ta bắt đầu học tập “Đại Kinh Khoa Chú” lần thứ 4. Mỗi lần học tập đều giúp cho chính chúng ta hướng nâng lên trên.
Ý kiến bạn đọc
Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú
(Tập 5A 5B)
Người giảng: Lão pháp sư Tịnh Không.
Thời gian: ngày 15 tháng 03 năm 2014
Địa điểm: giảng tại Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà HongKong.
(Đây là bộ khoa chú giảng lần thứ 4, khi Ngài ở độ tuổi gần 90, vẫn rất minh mẫn, giải tường tận nguyên lý nguyên tắc Tịnh Độ)
Các vị pháp sư! Các vị đồng tu xin mời ngồi! Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo.
A Xà Lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật đà lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma ly dục trung tôn, quy y Tăng Già chư chúng trung tôn.
A Xà Lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật đà lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma ly dục trung tôn, quy y Tăng Già chư chúng trung tôn.
A Xà Lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật đà lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma ly dục trung tôn, quy y Tăng Già chư chúng trung tôn.
Mời Xem “Đại Kinh Khoa Chú”, tờ thứ 148, điểm xuống hàng thứ ba là phần “Khái Yếu” có “Thập môn khai khải” (mười đoạn giới thiệu đại ý của bản kinh), là huyền nghĩa. Thiên Thai, Pháp Hoa Tông nói “ngũ trùng huyền nghĩa” (năm tầng huyền nghĩa) ý nghĩa đều như nhau, đều là thuộc về “Khái yếu”, khái yếu của toàn kinh.
“Thập môn” (10 mục) thứ lớp như sau:
“nhất giáo khởi nhân duyên, nhị bổn kinh thể tánh, tam nhất kinh tông thú, tứ phương tiện lực dụng, ngũ sở bị căn cơ, lục tạng giáo sở nhiếp, thất bộ loại sai biệt, bát trạch hội hiệu thích, cửu tổng thích danh đề, thập chánh thích kinh văn”[1]
Chúng ta xem chú giải của Niệm Lão, cái đoạn này là Niệm Lão chính mình viết:
“cẩn thích thử kinh, y Hoa Nghiêm Tông pháp, cập Di Đà Sớ Sao lệ, tổng khai thập môn kế vi”[2]
“cẩn” trong cái chữ này có tâm cung kính, có tâm chân thành, để giải thích một bộ đại kinh này.
“y Hoa Nghiêm tông pháp”, phương thức là y theo phương pháp của Hoa Nghiêm Tông giảng kinh. Ngay đến Đại sư Liên Trì trong “Di Đà Kinh Sớ Sao” cũng là dùng Hoa Nghiêm mười môn khai giải, tổng khai mười môn, bắt đầu từ “kế vi đệ nhất giáo khởi nhân duyên” (mục thứ nhất là nhân duyên khiến cho giáo pháp phát khởi) cho đến “thập chánh thích kinh văn” (mục thứ 10 là giải thích kinh văn).
“Tiền cửu môn, tổng luận, toàn kinh cương tông bộ loại, thử dữ Thiên Thai tông chi ngũ trùng huyền nghĩa, đại đồng tiểu dị”[3]
“cương” là cương yếu, “tông” là tông chỉ, “bộ loại” là bộ kinh này quy thuộc loại nào trong 49 năm giảng kinh dạy học của Thích Ca Mâu Ni Phật?
“Tuy, tường liệt lượt thủ xả tiêu biệt, tổng chi, giai tương nhất kinh cương yếu, tổng luận ư tiền, phát huy minh liễu”[4]
Mục đích thứ nhất là:
“sử độc giả tiên thức tổng thể, hậu nghiên kinh văn, cương cử mục trương, dị ư lãnh hội”[5]
Cho người sơ học. Người sơ học muốn nghe Ngài giải thích kinh văn, thì trước tiên Ngài đem đại ý toàn kinh làm một giới thiệu, để mọi người nhận biết bộ kinh này, có một khái niệm đối với bộ kinh này, sẽ sanh khởi tâm hoan hỉ, đó là đối với sơ học.
Mục đích thứ hai là:
Đối với các bậc lão tu? Các bậc lão tu mà nói không nên nghe kinh văn, vì kinh văn họ rất thuộc, họ đã nghe rất nhiều lần, nên cái mà họ muốn nghe chính là nghe huyền nghĩa phía trước. Huyền nghĩa là cái gì? Chính là bạn học tập báo cáo tâm đắc đối với bộ kinh này, thì phần này có thể cung cấp cho họ làm tham khảo tu học. Cho nên đối với lão tu, họ rất xem trọng bộ phận này.
Hai loại tác dụng này không như nhau, thế nhưng đều rất có sự giúp đỡ đối với nghiên giáo tu hành. Nắm lấy tổng cương lĩnh thì không thể nào đi sai đường. Giống như đánh cá, quăng lưới bắt cá, “cương” là dây tổng đầu, nắm giữ cái này, lưới vừa quăng cả thảy đều bung ra. Đây là nêu hình tượng này để thí dụ. Khai mở mười môn chính là tổng cương, nắm được tổng cương rồi, đại ý toàn kinh liền biết được một số đại khái, sau đó nghiên cứu kinh văn thì dễ dàng lãnh hội.
“Thử diệc loại tợ, cận đại thư tịch trung, dỉ khái luận vi thủ dã, kim tắc danh vi khái yếu (tối hậu chi nhất kinh, phương y kinh chương thứ chú thích kinh văn)”.
Mục sau cùng (thứ 10) mới là giải thích kinh.
Một là nhân duyên khởi giáo:
“nhất, minh đại giáo, dữ Tịnh Độ pháp môn chi hưng khởi”[6],
Phật pháp từ đâu mà có? Làm thế nào hưng khởi? Tu học Phật pháp trước tiên phải đem nó làm cho rõ ràng. Trong chú giải của Niệm Lão:
“giáo khởi nhân duyên giả, minh đại giáo, sở dĩ hưng khởi chi nhân duyên”[7].
Chỗ này phân ra hai đoạn:
Đoạn thứ nhất: “sơ, minh đại giáo, dữ Tịnh Độ pháp môn chi hưng khởi”[8],
Đoạn thứ hai: “thứ, tắc tường thuật bổn kinh, hưng khởi chi nhân duyên”[9],
Từng tầng từng tầng để nói rõ. Chúng ta xem phía sau, cái đoạn nhỏ thứ nhất:
“nhất thiết pháp, bất ly nhân duyên, đại giáo chi hưng, nhân duyên vô lượng”[10].
Câu này ở trong kinh đại tiểu thừa là Phật thường nói. Vậy vũ trụ do đâu mà hưng khởi? Từ đâu mà có? Theo các nhà khoa học hiện tại đều nói là do vụ nổ. Nói do vụ nổ lớn là nói không thông, vậy vụ nổ lớn là do nguyên nhân gì? Đều nói không thông. Vậy tại vì sao các nhà khoa học này lại nói do vụ nổ lớn? Những nhà thiên văn học này, hàng ngày mỗi buổi tối đều quán sát thái không, thái không có rất nhiều tinh cầu, họ thấy ra được hiện tượng gì? Tinh cầu đều cách thái dương hệ chúng ta bay đi ra rất xa, tốc độ rất nhanh, giống như là vụ nổ lớn xảy ra vậy. Do vụ nổ lớn, cái lý luận này vẫn còn nghi hoặc, cái cách nói này chỉ là trước mắt, rốt cuộc sự việc thế nào, hiện tại vẫn là dấu hỏi.
Phật không có cách nói này. Khởi nguồn của vũ trụ, Phật pháp nói với chúng ta về do nhân duyên sanh. Có nhân, có duyên mới có thể sanh ra kết quả, có nhân không có duyên không kết quả, có duyên không có nhân cũng không thể có kết quả. Chúng ta xem thấy các hiện tượng, hiện tượng là thuộc về kết quả. Vậy thì tất cả pháp đều là do nhân duyên sanh, Phật pháp cũng không ngoại lệ. Cho nên hưng đại giáo (đại giáo này chính là giáo học của Thích Ca Mâu Ni Phật 49 năm) giáo học này hưng khởi nhân duyên vô lượng, rất phức tạp, rất nhiều, không phải đơn thuần.
“nhi, vô lượng nhân duyên, duy vi, nhất đại sự nhân duyên cố”[11],
Trong vô lượng nhân duyên, một nhân duyên quan trọng nhất là gì? Chúng ta trước tiên phải biết cái điểm này, quan trọng nhất, quan trọng nhất chính là vì một đại sự nhân duyên, phía sau liền giải thích. Kinh Pháp Hoa nói rằng:
“Pháp Hoa vân, chư Phật Thế Tôn, duy dĩ, nhất đại sự nhân duyên cố, hiện xuất ư thế”[12]
Đây là nói rõ không chỉ là Thích Ca Như Lai, tất cả chư Phật, thế giới vô lượng vô biên, chư Phật cũng là vô lượng vô biên, các Ngài đã thành Phật rồi, thành Phật rồi các Ngài đến thế gian để làm cái gì? Tại vì sao phải đến? Câu tiếp sau đây sẽ nói rõ đó chỉ vì một đại sự, chính là một việc lớn này, vì “duyên cố” của sự việc lớn này mà xuất hiện ở thế gian. Cũng trên “Kinh Pháp Hoa” nói:
“Hoa Nghiêm vân, Như Lai thành đẳng chánh giác xuất hưng ư thế, dĩ thập chủng vô lượng vô số nhân duyên, nãi chí, quảng thuyết như thị đẳng, duy vi nhất đại sự nhân duyên”[13]
Phía sau chính là nói về duy chỉ một đại sự nhân duyên, đó là:
“duy dục chúng sanh, khai thị Phật tri kiến cố”[14].
“diệc tức dục nhất thiết chúng sanh khai minh bổn tâm, đồng Phật tri kiến, đẳng thành chánh giác dã”[15].
Chính cái sự việc này, chúng ta xem chú giải của Niệm Lão.
“Pháp Hoa Kinh vân; chư Phật Thế Tôn, duy dĩ nhất đại sư nhân duyên cố xuất hiện ư thế, duy dĩ Phật chi tri kiến thị ngộ chúng sanh”[16].
“Phật tri kiến” là tất cả chúng sanh vốn có, nhưng hiện tại bị bế tắc. Giống như giấu trong cung điện vậy, cửa đóng rồi, trước giờ chưa từng bước vào, không biết được trong đây có những gì, đây gọi là mê. Phật giúp cho chúng ta mở cái cửa này ra (khai), mở ra rồi thì chúng ta thấy được (thị), nhưng xem thấy những thứ bên trong không nhận ra, giống như chúng ta đi viện bảo tàng cố cung vậy, bên trong bày biện rất nhiều thứ không quen biết, cần phải có người vì chúng ta chỉ, thị ra, vì chúng ta giới thiệu, khi vừa giới thiệu thì chúng ta liền tường tận, đây gọi là ngộ. Sau khi ngộ làm thế nào có thể được thọ dụng? Cố cung chỉ thấy (khai, thị, ngộ), cái thứ này bạn không thể lấy để dùng, vẫn là để đó để triển lãm, nếu như bạn lấy ra mang về nhà bạn, đều dùng ở ngay trong cuộc sống thường ngày của bạn, đây gọi là nhập.
Đây là bốn cái giai đoạn, Phật cống hiến đối với chúng ta là khai thị, ngộ nhập hoàn toàn là việc của chính mình. Cho nên Phật pháp nói khế cơ, khế lý. Người chân thật khai ngộ, chân thật thành Phật rồi, thì gọi là Đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, người nói việc này, người nghe phải có năng lực ngộ nhập, không có năng lực ngộ nhập, vậy thì không phải cơ nghi, chính là họ không phải đương cơ, họ tuy là nghe giảng, nghe rồi bán tín bán nghi, nghe rồi chưa khai ngộ.
Năm xưa Phật ở đời, Phật có trí tuệ, Phật có thần thông, thế nhưng Ngài cũng không thể dạy người hoàn toàn khai ngộ, Ngài chỉ có thể dạy người thượng căn triệt ngộ, người trung căn ngộ mà không thấu triệt, người hạ căn nghe rồi có thể hoàn toàn chưa ngộ, đem cái họ nghe xem thành thường thức để đối đãi, loại người này không cách gì tu. Người có thể ngộ họ mới hiểu cách tu, người triệt ngộ tu hành chứng quả thì nhanh. Tiêu chuẩn của người xưa là ngay trong một đời này có thể chứng quả, đây đều là người thượng căn. Người trung căn ngay trong một đời này không thể chứng quả, phải đợi đời sau kiếp sau. Còn người hạ căn thì sao? Có những người hạ căn phải đợi vô lượng kiếp, thời gian rất lâu rất dài, đời đời kiếp kiếp tiếp nhận huân đào của Phật pháp thành chủng tử, mới có cơ hội khai ngộ này.
Phật Đà năm xưa ở đời giảng kinh dạy học, đệ tử khai ngộ có chúng Bồ Tát, có chúng Thanh văn. Chúng Bồ Tát phải đẳng cấp gì mới khai ngộ? Hoa Nghiêm cũng là Viên giáo, Pháp Hoa cũng là Viên giáo, đều phải đến Sơ trụ trở lên. Viên giáo Sơ trụ trở lên khai ngộ rồi. Hay nói cách khác nhị thừa, tam thừa Bồ Tát đều là ngộ mà chưa nhập, phải Sơ trụ trở lên nhập rồi. Biệt giáo sơ trụ, Viên giáo sơ trụ, chân thật được thọ dụng, được thọ dụng gì? Ra khỏi mười pháp giới, cõi Thật Báo Trang Nghiêm hiện tiền, vậy thì được đại thọ dụng.
Tiểu thừa tâm thanh tịnh cũng có thể khai ngộ, tiểu ngộ, họ được thọ dụng siêu xuất sáu cõi luân hồi, vĩnh viễn không còn luân hồi sáu cõi nữa. Họ vào cái cảnh giới này, đều là được thọ dụng chân thật.
Nếu như chúng ta đời sau vẫn cứ luân hồi sáu cõi, đó chỉ là khải thị chứ chưa ngộ nhập. Trong Phật pháp Đại thừa đã nói là pháp bình đẳng, “tất cả chúng sanh vốn dĩ là Phật”. Lời nói này là thật, không phải là giả. Phàm phu khác biệt với Phật chính là ở chỗ mê ngộ, phàm phu giác ngộ rồi liền thành Phật. Cảnh giới của giác ngộ cũng muôn ngàn khác biệt, giác ngộ thế nào? Công phu giác ngộ toàn là buông xả. Vì sao vậy? Tại vì bạn mê? Bởi vì bạn có chấp trước nên bạn mê, bạn có phân biệt nên bạn mê, bạn có khởi tâm động niệm nên bạn mê. Phật đem chướng ngại của chúng ta (chính là chướng ngại chúng ta không thể minh tâm kiến tánh) chỉ cho chúng ta, đó là ba loại phiền não lớn, khởi tâm động niệm chính là vô minh, vô minh phiền não, vô minh là không tường tận, chính là mê, hay nói cách khác không khởi tâm không động niệm bạn liền giác ngộ rồi. Tu ở chỗ nào? Phương pháp quá nhiều rồi, tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, mỗi môn đều thông đạt Niết Bàn đạo. Niết Bàn chính là không sanh không diệt, mỗi môn đều thông.
Cho nên đại thừa giáo nói có pháp nào không phải là Phật pháp. Phật pháp chính là phương pháp thông đến Niết Bàn, Phật đạo chính là con đường thông đến Niết Bàn. “Đạo” chính là con đường, “pháp” là phương pháp. Thế nhưng căn tánh của chúng sanh không đồng nhau, vô thỉ kiếp đến nay tập khí chủng tử không giống nhau, vậy thì tạo thành cái gì? Có người vừa nhìn thì tường tận, có người vừa nghe thì hiểu rõ, có người vừa tiếp xúc thì thấu hiểu. Ngày nay chúng ta nhìn không hiểu, nghe cũng không hiểu, tiếp xúc vẫn là không hiểu, cho nên thấy sai, nghĩ sai, thế là nói sai, làm sai. Trong cái sai lầm này có thiện ác, thiện thì cảm ứng ba đường thiện, ác thì cảm ứng ba đường ác. Các vị nhất định phải hiểu được cả ba đường thiện và ba đường ác thảy đều sai lầm. Vì sao vậy? Căn bản là không có sáu cõi luân hồi, sáu cõi luân hồi là giả. Cũng giống như một giấc mộng, bạn thấy mộng đẹp, bạn thấy ác mộng, khi tỉnh lại rồi thảy đều là mộng, đều không tồn tại. Cho nên thiện ác là không chút ý nghĩa. Ở trong sáu cõi có thiện ác, cái mộng tốt cùng ác mộng không như nhau, thế nhưng khi tỉnh mộng thì không có gì, đều cũng bằng không. Cho nên Phật dạy cho chúng ta, pháp còn nên xả, huống hồ phi pháp, cho dù Phật pháp là thiện, là mỹ, thế nhưng trong tự tánh không có thứ này.
Lão Tử cũng nói được hay “đạo khả đạo, phi thường đạo, danh khả danh, phi thường danh”. Phật nói cho chúng ta là cái danh này mà thôi, danh của đạo, danh của thiện, nói cái danh tướng mà thôi. Thực thể thì sao? Thực thể không có. Chỉ có bổn tánh là thật thể, thế nhưng bổn tánh nói không ra được, bổn tánh bạn cũng không thấy được, bạn cũng không nghe được, bạn cũng không sờ đến được, nhưng nó thật có, nó không phải giả. Còn hiện tượng là giả, hiện tượng vật chất là giả, cả khởi tâm động niệm hiện tượng tinh thần cũng là giả, hiện tượng tự nhiên là giả. Cho nên Phật nói “phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”.
Vậy công phu tu hành thì sao? Chính là ở ngay trong những hiện tượng hư vọng này, không nên chấp trước, không nên phân biệt, không nên khởi tâm động niệm, thì thành công rồi. Cho nên biết chữ hay không biết chữ không liên quan, có học qua hay không cũng không liên quan, mà vấn đề mấu chốt ở buông xả. Nhìn thấu là hiểu rõ chân tướng sự thật, buông xả thì không còn bị nó ảnh hưởng nữa.
Nếu bạn có thể buông xả chấp trước thì chứng quả A La Hán. Buông xả chấp trước thì tâm thanh tịnh rồi, rời xa ô nhiễm. Buông xả ở chỗ nào vậy? Mắt thấy sắc không chấp trước tướng sắc, tai nghe âm thanh không chấp trước tướng âm thanh, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, không chấp trước tướng cảnh giới, biết được tướng cảnh giới không phải là thật, nên gọi là “ngay thể tức không, không thể có được”, đây gọi là chân tướng.
Nếu như lại nâng cao lên một tầng, không những không chấp trước, ngay tâm phân biệt cũng không có, vậy chúc mừng bạn, bạn thăng cấp rồi, bạn từ A La Hán nâng lên Bồ Tát. A La Hán là tâm thanh tịnh, Bồ Tát là tâm bình đẳng. Bình đẳng nhất định có thanh tịnh, nhưng thanh tịnh chưa hẳn có bình đẳng.
Lại hướng nâng lên cao nữa chính là không khởi tâm, không động niệm. Ngay thanh tịnh bình đẳng đều buông xả, không khởi tâm không động niệm, vậy chúc mừng bạn, bạn thành Phật rồi, vô minh phá rồi, vô minh buông xả rồi.
Cho nên các đồng tu học Phật, trong nhà có cúng tượng Phật, cúng dường trước tượng Phật thứ gì? Quan trọng nhất chính là cũng một ly nước. Cái ly của ly nước này tốt nhất nên dùng ly pha lê, ly thủy tinh, trong suốt, bạn có thể nhìn thấy được. Nước này là cái ý gì? Không phải để Phật uống, Ngài không uống đâu, mà đây là biểu pháp, nhắc nhở chúng ta, bạn tu cái gì? Phải đem tâm tu đến giống như nước vậy, thanh tịnh như vậy, không có ô nhiễm, bình đẳng như nhau, không có gợn sóng. Cho nên trong ly nước này trong sạch, không nên cúng nước trà, trà có ô nhiễm, nó có màu sắc, nhất định phải cúng nước, phải cúng nước trong, nó đại biểu thanh tịnh, đại biểu bình đẳng, đại biểu giác.
Trên đề kinh chúng ta “Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác”, chúng ta tu chính là tu cái này. Giác là tất cả thông đạt tường tận, là trí huệ. Trí huệ từ đâu mà sanh? Khi không còn việc gì, trong tâm không sanh một ý niệm, chẳng phải vậy sao? Không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, một niệm không sanh. Một niệm không sanh gọi là Tam muội, tiếng Phạn gọi Tam muội, còn khi dịch thành ý Trung Văn gọi là Thiền định.
Thiền định là gì?
“Thiền định” cách nói của hai chữ này là ngoài không dính tướng gọi là “Thiền”, trong không động tâm gọi là “Định”. Bên ngoài không quản là thứ gì, thấy được rất rõ ràng rất tường tận, nhưng không để ở trong tâm. Việc này rất quan trọng, quyết không để ở trong tâm, chắc chắn không bị cảnh giới bên ngoài quấy nhiễu, đây gọi là thiền. Bên trong không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, đây gọi là định. Định đến cùng tột, tự tánh vốn định, tâm của chúng ta vốn dĩ là định. Hiện tại vừa thấy cảnh giới bên ngoài tâm của chúng ta liền động gọi là động tâm, đây gọi phàm phu, còn như cảnh giới bên ngoài có động thế nào tâm không động, đây gọi là Phật Bồ Tát.
Có định liền có trí huệ, liền có thần thông, liền không có chướng ngại. Tu ở chỗ nào vậy? Tu ở ngay trong đời sống. Ví dụ: Mặc áo, khi đang mặc áo cũng tu, ăn cơm, khi đang ăn cơm cũng tu, làm việc, khi làm việc ở ngay trong lúc làm việc cũng tu, ngay trong đối nhân xử thế tu, toàn là Phật pháp, không có pháp nào không phải là Phật pháp. Phật pháp chính là lìa tất cả tướng, chính là tất cả pháp.
Lìa tướng là cái gì?
Ngay tướng lìa tướng, lìa tức đồng thời, không có trước sau, chính ngay trên tướng không chấp tướng đây gọi là công phu. Không phải không tiếp xúc, không tiếp xúc thì có tác dụng gì chứ? Ý niệm vẫn cứ nghĩ, không ích gì. Không thể nói tướng lìa khỏi không ở trước mặt thì không tưởng đến nó, mà ở trước mặt cũng không nghĩ đến nó, đây gọi là đại định, thì gọi công phu thành tựu rồi. Cho nên trước tiên phải hiểu được tự tánh là gì?
Tự tánh là gì?
Trong “Pháp bảo Đàn Kinh” Lục Tổ Đại Sư Huệ Năng nói được rất rõ ràng, Ngài nghe ngũ tổ giảng Kinh Kim Cang liền khai ngộ. Ngài là từ nghe kinh khai ngộ, còn Thích Ca Mâu Ni Phật là dưới cội bồ đề nhập định khai ngộ. Bạn xem phương pháp khai ngộ không như nhau. Phương pháp không nhất định, vô lượng vô biên, xúc động cội nguồn của bạn bỗng nhiên khai ngộ. Đây là điều chúng ta cần phải hiểu được thì chúng ta mới có thể được thọ dụng, thật thọ dụng. “Bát Nhã vô tri, vô sở bất tri”. Bát Nhã là trí huệ, trí huệ có hai loại, một cái là thể, một cái là tác dụng. Thể chính là vô tri, đi con đường này rất nhanh.
Cho nên lần này chúng ta đến đây thật tốt. Chúng ta xem đĩa về Lão Hòa Thượng Hải Hiền cùng tư liệu này đều in ra, đều tặng cho mọi người. Lão Hòa Thượng Hải Hiền, Ngài là cảnh giới gì vậy? Ngài được tam muội rồi, Ngài khai ngộ rồi, có phải là minh tâm kiến tánh? Rất là có thể, Ngài cái gì cũng đều biết, nhưng Ngài không nói, tại vì sao không nói? Nói ra không có người hiểu. Người thượng thượng căn có thể nói với họ, người trung hạ căn không thể nói. Bạn xem Ngài không biết chữ, không có đi học, ngay đến thời khóa tụng sớm tối Ngài đều không có làm qua. Thời khóa sớm người khác đọc kinh niệm chú, Ngài niệm A Di Đà Phật, một câu A Di Đà Phật Ngài khai ngộ, vì sao vậy? Người xưa có một câu nói “biết ít việc phiền não ít, biết nhiều người thì phải quấy nhiều”, Ngài không biết chữ, không có đi học, trong kinh nói gì Ngài cũng không biết, Ngài không có loại phân biệt chấp trước, một câu Phật hiệu tâm của Ngài là định rồi, ngày trong hai đến sáu giờ không luận Ngài làm cái gì, ở mọi lúc vào mọi nơi, Ngài làm ra toàn là đang tu đại định, tu tự tánh vốn định.
Đại Sư Huệ Năng nói rất hay “nào ngờ tự tánh, vốn tự thanh tịnh”. Tự tánh là tâm thanh tịnh, tự tánh là bổn thể, tự tánh cũng gọi là pháp tánh, cũng gọi chân như. Mỗi ngày Ngài dùng cái này, Ngài là khởi “giác” dụng, còn chúng ta là khởi “mê” dụng. Vì sao vậy? Chúng ta vọng niệm quá nhiều, tạp niệm quá nhiều, đây là gì vậy? Tâm không thanh tịnh, không bình đẳng, lúc nào chúng ta có thể đem tâm làm bình rồi?
Hai vị huynh đệ này đều không biết chữ, cho nên tâm địa thanh tịnh, không có tạp niệm, không có vọng tưởng. Lão hòa thượng dạy Ngài mấy câu, đó chính là tổng cương yếu giáo học của Như Lai. Ngài liền nhớ lấy cái câu này, Ngài liền có thể thành công. Câu này là gì? Nam Mô A Di Đà Phật! Có vị cư sĩ thỉnh giáo Ngài về đạo khỏe mạnh trường thọ, Ngài nói hai câu, đó là “trì giới, niệm Phật”. Đây chính là tổng cương lĩnh của chư Phật Như Lai tự hành hóa tha.
Vậy trì giới, giới là gì? Ngài chưa có học qua giới. Pháp sư Định Hoằng đến Đài Loan học giới đã học một năm rồi. Cái luật tạng này của Phật Đà phải dùng bao nhiêu thời gian? Pháp sư Quả Thanh đã dùng ba mươi năm, chuyên công giới luật. Vị lão hòa thượng này trì giới gì vậy? Tam quy, ngũ giới, mười thiện, tứ nhiếp, lục độ.
Ngài trì cái này, không có các thứ khác, chỉ giữ những thứ này, cả đời đều không trái phạm. Ngài có thể được định, Ngài có thể khai ngộ, Ngài có thể được tự tại vãng sanh. Ngài sống ở thế gian này có ý nghĩa, có giá trị, có mục đích, mục đích gì vậy? Mục đích là biểu pháp, Ngài không uổng phí, Ngài giáo hóa chúng sanh nhiều ít, ảnh hưởng bao nhiêu chúng sanh. Chúng ta phải học tập với Ngài, học tập thế nào? Buông xả tất cả duyên ngoài, nhất tâm chuyên chú niệm Phật. Cũng giống như lão hòa thượng vậy, nghiêm giữ tam quy, ngũ giới, thập thiện, lục hòa, lục độ. Đủ rồi! Đây chính là Bồ Tát trụ thế, làm gì có phiền não? Mấy điều này chân thật đều làm được rồi, Phật Bồ Tát tái lai, không phải Phật Bồ Tát tái lai họ không làm được.
Ngày nay chúng ta làm từ chỗ nào, lão hòa thượng Hải Hiền người hơn một trăm tuổi, sanh ra vào năm 1900, tôi sanh ra vào năm 1927, lão hòa thượng lớn hơn tôi 27 tuổi. Tuổi tác này của tôi, lúc nhỏ còn nếm được một chút truyền thống văn hoá, vậy nên lão hòa thượng còn thắm sâu hơn so với tôi nhiều, tuy là Ngài không có đi học, không biết chữ, không cần lo, nhưng Ngài hiểu được “ngũ luân, ngũ thường”.
Ngũ luân là gì? Là quan hệ của người với người, “phụ tử hữu thân, phu phụ hữu biệt, quân thần hữu nghĩa, trưởng ấu hữu tự, bằng hữu hữu tín”[17]. Ngài biết được, Ngài ứng xử quan hệ người với người rất tốt, hiểu được ngũ luân, hiểu được ngũ thường.
Ngũ thường là gì? Là thường đạo[18], chính năm chữ này “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”. “Nhân” là việc thứ nhất phải yêu người, “kỷ sở bất dục, vật thí ư nhân”, Ngài làm được rồi, làm được rất viên mãn; “Nghĩa”, nghĩa là khởi tâm động niệm lời nói việc làm hợp tình, hợp lý, hợp pháp, cái điều này làm được rồi; “Lễ” là lễ mạo, khiêm nhường cung kính đối người, vậy lễ làm được rồi; “Trí” là lý trí, không cảm tình làm việc; Sau cùng chữ “tín”, lời nói có chữ tín. Bạn thấy “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín” thảy đều đầy đủ.
“Tứ duy, bát đức” bạn tưởng tượng xem, có chữ nào Ngài không có? Đều có, không nên nhiều, chân thật làm được, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm, khi qua lại với người, quyết định tương ưng với “Ngũ luân, ngũ thường, tứ duy, bát đức”, quyết định tương ưng với “Tam quy, ngũ giới, thập thiện, lục hòa, lục độ”. Ngài không phải Bồ Tát thì ai là Bồ Tát? Thích Ca Mâu Ni Phật như vậy, Ngài cũng như vậy, Di Đà cũng như vậy.
Chúng ta biết được những sự việc này liền biết được phải nên tu như thế nào? Phải nên học bằng cách nào? Ngài được thọ dụng, chúng ta cũng được thọ dụng. Ở ngay trong xã hội hiện tiền, lão Hòa Thượng Hải Hiền ở trong cái xã hội này, với Ngài không khác gì ở thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc tất cả đều là thiện, tốt đẹp, không để ở trong tâm, còn nơi đây tất cả đều bất thiện, cũng không để ở trong tâm. Ngài ở nơi đây biểu diễn cho chúng ta xem, dùng một câu Phật hiệu “A Di Đà Phật”, đem vọng tưởng, tạp niệm, thiện, bất thiện nghiệp thảy đều đổi hết, trong lòng không có thứ gì, sạch sẽ trong sạch, chỉ có một câu A Di Đà Phật, thiện A Di Đà Phật, ác cũng A Di Đà Phật, đến A Di Đà Phật đến nơi đây cũng liền bình đẳng rồi. Đây chính là phương pháp của Ngài tu hành, diệu tuyệt rồi, đây gọi là niệm Phật, Ngài biết niệm Phật.
Chúng ta niệm Phật vẫn còn phân biệt, vẫn còn chấp trước, đây là giả niệm, không phải thật niệm, cái cách niệm này thì có niệm một trăm năm, hai trăm năm, ba trăm năm, cũng không ích gì, vẫn là luân hồi sáu cõi. Niệm Phật không thể xen tạp, lời nói này nhiều năm qua chúng ta đã nói rất nhiều lần, niệm Phật có ba cương yếu: Cái thứ nhất “không thể xen tạp”; Cái thứ hai “không thể gián đoạn”, tốt nhất là ngày đêm đều không gián đoạn; Cái sau cùng “không thể hoài nghi”, nó là thật, một chút cũng không giả. Chân thật giữ lấy “không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn” thì không có ai không thành tựu, hơn nữa thành công rất nhanh.
Chúng ta từ “Tịnh Độ Thánh Hiền Lục”, từ trong “Vãng Sanh Truyện” mà xem, lại từ trong công phu niệm Phật hiện tiền của chúng ta niệm Phật đến vãng sanh, chúng ta sẽ phát hiện ra người niệm Phật ba năm thành tựu rất nhiều. Ba năm là một ngàn ngày, người xưa nói “sách đọc ngàn lần, nghĩa kia tự thấy”. Một ngàn ngày chính là ba năm, ba năm có thể chuyên tâm, vạn duyên buông xả, khẳng định được tam muội, được tam muội thì chắc chắn vãng sanh, mà còn tự tại vãng sanh, muốn lúc nào ra đi thì lúc đó ra đi, muốn ở thêm mấy năm thì không chướng ngại gì. Không có thọ mạng thì A Di Đà Phật sẽ giúp bạn kéo dài tuổi thọ. Lão Hòa Thượng Hải Hiền 112 tuổi, tôi cảm thấy không phải là thọ mạng của Ngài, có thể thọ mạng của Ngài sớm đã đến rồi. Tại vì sao ngài trường thọ như vậy? Phật kéo dài cho Ngài vì việc của Ngài chưa làm xong. Chưa làm xong việc gì? Chúng ta xem thấy trong báo cáo này nói rằng đến sau cùng Ngài được quyển sách (Ngài không biết chữ), nghe nói quyển sách này là “Nếu Muốn Phật pháp Hưng Chỉ Có Tăng Khen Tăng”, vô cùng hoan hỉ. Bạn xem trong báo cáo nói giống như là nhận được bảo bối vậy. Ngưỡng vọng nhiều năm, bảo bối này rốt cuộc đã đến tay. Ngài mặc áo đắp y, hoan hỉ cầm lấy quyển sách này rồi nói “các người phải mau chụp hình cho tôi”.Đó là gì vậy? Một biểu pháp sau cùng, cái biểu pháp này xong rồi, Ngài liền đi đến thế giới Cực Lạc. Ngài ngưỡng vọng cái biểu pháp này là ngưỡng vọng rất nhiều năm, cuối cùng ngày này cũng đến rồi, Phật tiếp dẫn Ngài vãng sanh. Đến lúc nào thì Ngài rõ ràng tường tận, Ngài không nói với người, không cần người trợ niệm, Ngài chọn lựa thời gian là buổi tối, mọi người đều đi ngủ, Ngài ra đi, không có người quấy nhiễu. Bạn quán sát cái đĩa này, bạn tỉ mỉ quán sát từng li từng tí bạn sẽ phát hiện áo diệu ở trong đó, thảy đều đáng được chúng ta học tập, đáng được chúng ta tin tưởng.
“Hoa Nghiêm Kinh Tánh Khởi Phẩm[19], Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác”. Đây là mười hiệu của đức Phật, mười thứ danh hiệu, tất cả chư Phật bình đẳng. Mười loại đức hiệu ấy là Tánh Đức, cho nên trong tự tánh của quý vị thảy đều có “Tánh khởi, tánh pháp, bất khả tư nghì”[20].