Tìm Kinh Sách
 
        Kinh Sách FULL

Báo Ứng Hiện Đời – Tập 2 – Hạnh Đoan dịch

Lời cảm ân
(Của Hội Đạo Đức Trung Hoa)

“Báo ứng hiện đời” sau khi xuất bản từ năm 2003 đến nay, được độc giả trong nước ngoài nước nhiệt liệt hưởng ứng, đến tháng giêng năm nay (2009), đã tái bàn lần thứ 9, tổng cộng 21 vạn sách. Độc giả bao gồm các chùa bên Mỹ, Anh, Úc, Nhật, Đông Nam Á, Hương Cảng, Đài Loan… và các tỉnh trong Đại Lục. Đông đảo độc giả gọi điện gởi thư đòi sách và gởi bài tới, nhiệt liệt cổ vũ bảy tỏ mong ước được xem tập kế tiếp nữa. Được độc giả ủng hộ đắc lực, nên chúng tôi thu thập chuyện nhân quả báo ứng người thực việc thực trong ba nước: Đài Loan, Thái Lan và Trung Quốc. Giờ đây, “Báo ứng hiện đời tập 2” cuối cùng đã xuất bản. Nhân cơ hội này, chúng tôi xin cảm ơn nhiệt tâm chân thành gởi bài của độc giả, và xin tán thán công đức vô lượng.

18/4/2011

Chương 1: Ba mỹ nhân

Vợ chồng Quan giáo sư hiện.nay 55 tuổi, sinh được ba cô con gái dung mạo mỹ lệ, tuổi tác khá cách nhau: 25, 23, 20. Mặc dù là những tiểu tư lá ngọc cành vàng kiều diễm, nhưng các tiên nương này vẫn chưa có đổi tượng cầu hôn Vợ chồng giáo sư hết sức khỗ sầu. Trong khi đó nhiều thanh niên vừa thoáng nhìn qua các cô thì đã nghiêng ngửa hồn phách, ra công theo đuổi… Nhưng một khi đã phát hiện các tuyệt đại mỹ nhân này không thề nói năng gì, thì họ lập tức thối lui, bỏ đi.

Vợ chồng Quan giáo sư thuộc hàng thượng lưu trí thức, xưa nay không hề tin vào thuyết nhân quả. Nhưng cứ lần lượt sinh hạ liên tiêp ba cô gái câm, quả thực tinh thần họ bị đả kích khốc liệt đến muốn suy sụp. Họ ngơ ngác bàng hoàng, vạn phần thống khổ. Nỗi buồn làm mặt họ già đi, hai người tuy có học thức cao và giàu sang, nhưng không thể nào đem lại hạnh phúc cho con mình. Sự khiếm khuyết của ba mỹ nữ này, khiến người ta cảm thấy kinh sợ, ưu tư thắc mắc nhưng không thể giúp gì.

Thường có câu: “Tuổi thanh niên ưa bàn học vấn, tuồi trung niên ưa bàn về sổ mệnh đến lão niên ưa bàn về tôn giáo”… Vợ chồng Quan giáo sư hiện đang bước vào tuổi lão niên, song tinh thần họ trường kỳ thống khổ mà không thuốc men nào có thể trị lành. Vì vậy đối với tôn giáo họ dần dần phát sinh hứng thú muốn tìm hiểu.

Cuối tuần, nhờ một người bạn khuyến khích, họ bèn đến một ngôi chùa ven đô nghe cao tăng thuyết pháp.

Hòa thượng giảng: – “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”, quy luật nhân quả tồn tại rất khách quan và không do đức Phật quy định hay sáng tạo ra. Đức Phật chỉ là công bố, nói rõ cho chúng sinh biết mà cảnh giác thôi. Bắt kể bạn tin hay không, đời sống tất cả chúng ta đều nằm trong nhân quả, vỉ vậy mỗi cá nhân chúng ta cần có trách nhiệm đối với hành vi thiện ác của bản thân mình. Mỗi người chính là kẻ sáng tạo vận mệnh của mình. Nếu như tự mình làm ác, thì bạn sẽ gặp quả báo thống khổ”…

Đề tài buổi thuyết pháp hôm ấy giống như được nêu lên để Quan tiên sinh chiêm nghiệm và trực diện với nội tâm sâu thẳm… ông bỗng hồi tưởng lại chuyện đã qua từ 25 năm trước…

“Hồi đó, Vợ chồng Quan giáo sư vừa kết hôn được hai tháng thì chị Quan hoài thai. Anh Quan rất vui mừng, lái chiếc xe hơi đắt tiền sang trọng chở vợ đến miền duyên hải có phong cảnh nên thơ hữu tình, cùng nhau du lịch.

Có lần, họ đến miền bắc Thái Lan, tham gia hội yến, xe hơi dừng trước khoảng sân rộng của một ngôi chùa. Anh Quan vừa mở cửa xe, thì lập tức có một đám trẻ hành khất lang thang chạy tới chen lấn, kéo tay họ xin tiền.

Giáo sư Quan rất ghét những kẻ ăn xin không những tự mình không cho mà anh còn nói với mọi người:

– Không nên cho chúng tiền, như vậy sẽ tập cho chúng quen thói bất lương, chẳng chịu làm việc đàng hoàng mà cứ ngồi không hưởng thụ, tạo ra tệ nạn cho xã hội…

Đám trẻ lang thang nghe nói vậy bèn bỏ đi. Vợ chồng giáo sư Quan tham dự hội yến vừa xong, lúc quay về chỗ đậu xe thì phát hiện chiếc xe đời mới sang trọng yêu quý bị rạch một đường sâu, kéo dài từ đầu xe đến đuôi xe. Thể là Quan tiên sinh bốc hỏa, nỗi giận đùng đùng, anh thầm nghĩ nhất định là đám trẻ đường phố ban nãy. Anh giương mắt nhìn tứ phía, thấy ở dưới gốc cây xoài gần đó, tụ tập bốn-năm đứa trẻ tuổi độ 13 -14. Anh liền xông tới, không cần hỏi rõ trắng, đen; phải, trái; anh giáng cho mỗi đứa một bạt tai. Sau đó lớn tiếng bắt chúng phải khai ra ai đã rạch chiếc xe quý giá của anh. Quan tiên sinh thấy không ai chịu nhận, liền uy hiếp đòi đưa chúng đến sở cành sát. Đám trẻ sợ quá, trong đây có một đứa lớn tuổi nhất, liền chĩ ra phía xa xa, (chỗ có một đứa trẻ hành khất ăn mặc lam lũ đang hướng người ngoại quốc xin tiền) vả bảo đỏ là thủ phạm. Giáo sư Quan đang cơn nộ khí xung thiên liền hùng hổ chạy qua bắt đứa trẻ đường phố nọ đến bên xe, còn đám trẻ kia nhân cơ hội này mạnh ai nấy chạy thoát thân.

Quan tiên sinh hung bạo tát vào hai má của đứa bé, hung hãng thẩm vấn nó vì sao dám rạch xe anh? Hỏi một hồi mới phát hiện một điều: té ra đó lả đứa trẻ câm. Thằng bé không ngừng khoa tay múa chân, mắt rưng rưng lệ tỏ vẻ khiếp hãi, ánh nhìn rất đáng thương. Quan giáo sư không hiểu được ngôn ngữ ra dấu của nó, cho là nhất định vì anh tuyên bố “không cho tiền” mà thằng nhỏ này ôm hận chơi xấu. Vì vậy anh phẫn nộ tung chân phải ra, đá mạnh vào ngực thằng bé câm. “Huỵch” một tiếng, nó ngã chỏng gọng, đưa hai chân lên trời, tiếp theo là “ọc” một tiếng, máu tươi từ miệng nó tuôn ra, người chung quanh vội chạy tới kéo giáo sư ra và mang đứa trẻ câm đi để nó không phải bị đòn nữa.

Đứa bé câm đi rồi, nhưng vẫn quay đầu nhìn trừng trừng về phía giáo sư. Nhãn quang nó đầy căm hận. Sau đó đứa trẻ câm náu thân trong chùa, nó phát bịnh nặng được mấy năm thỉ thành tàn phế. Mọi người đều biết đứa bé câm bản tính thiện lương, chiếc xe hơi không phải do nó rạch, Quan giáo sư đã đánh oan nó.

Cuối năm đó, chị Quan hạ sinh một bé gái, mày thanh mắt sáng, đến ba tuổi vẫn chưa nói được. Tiếp đến chị lại sinh một thiên kim thứ hai, ba tuổi cũng không thể nói. Sau chót, chị sinh bẻ gái thứ ba, vừa sinh là vội mời bác sĩ đến kiểm tra: lại là một cô nương câm nữa! Chị Quan sợ tương lai nếu sinh nữa thì đứa thứ tư, thứ năm… vẫn là con gái câm, nên đã nhờ bác sĩ mổ triệt sản giùm”.

Bây giờ, mỗi lần Giáo sư Quan nhìn ba đứa con gái câm, là nhớ ngay đến cú đá khoe liệt mình dành cho thằng bẻ câm ngày xưa. Ông không quên được cảnh miệng nó ọc máu tươi và ánh nhìn oán hận khủng khiếp…

Đến nay nhớ lại, ông vẫn thấy ớn lạnh, ông đã hiểu ra và không thể không tin đạo lý báo ứng nhân quả mà thiên lý luôn tuần hoàn báo ứng công bằng, đó là quy luật tự nhiên. Đối với hành vi hung tàn 25 năm xưa, bây giờ ông có hối cũng đã muộn màng.

Từ đó, mỗi cuối tuần, Vợ chồng ông Quan đều đến chùa nghe cao tăng giảng kinh và sám hối tội lỗi của mình trước Phật. Họ phát tâm tu thiện tích đức. Đúng như tục ngữ có nói: “Đời người đến 50, mới nhìn ra lỗi lầm năm 49”.

Lời Bình:

Dịch xong câu chuyện này tôi lại nhớ đến câu chuyện nhân quả đời Đường như thế này:

Có một nông phu, bản tính rất ác độc. Một buổi sáng nọ ra đồng thăm ruộng, thấy con trâu nhà hàng xóm, vừa ăn lúa, vừa giâm đạp đám ruộng của anh tơi bời, anh nổi giận xung thiên, liền túm đầu trâu, rút ra con dao bén, cắt đứt lưỡi trâu.

Mười năm sau, anh nông phu lấy vợ, sinh được ba đứa con, nhưng chúng đều bị câm. Anh nông phu đã tìm danh y khắp nơi nhờ chữa trị cho con, nhưng vô phương. Anh không hiểu vì sao con mình bị như thế ? Lòng đau khổ vô củng. Tối đó anh nằm mộng, thấy cảnh mình tàn nhẫn cắt đứt lưỡi trâu. Tỉnh dậy anh hiểu ra tất cả. Vì ác nhân ấy mà con anh phải chịu tai họa như hiện nay. Thực ra thì anh nông phu chịu khổ báo đã đành, các con anh vì sao cũng bị vạ lây? Đây chỉ có thể giải thích theo nhà Phật là do cộng nghiệp, những người đồng tạo ác tương tự sẽ củng thọ báo giống nhau.

/5
 

  Ý kiến bạn đọc

Mã bảo mật   

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây