Giới thiệu bộ "Pháp uyển châu lâm"
Pháp uyển châu lâm một trăm quyển do pháp sư Đạo Thế tự Huyền Uẩn soạn vào đời Đường, Trung Quốc, Thị lang Lí Nghiễm viết tựa. Sách đã được ban Dịch thuật Pháp Âm chuyển sang tiếng Việt và xuất bản vào năm 2011, gồm bảy tập. Trải qua bảy năm lưu thông, năm nay theo nhu cầu của người đọc, ban Dịch thuật đã cho tái bản có sửa chữa và gom lại thành 5 tập với khổ lớn hơn.
Ý kiến bạn đọcPHÁP UYỂN CHÂU LÂM
Giảng giải: Pháp Sư Đạo Thế, Đời Đường
QUYỂN 4
Thiên thứ 3: NHẬT NGUYỆT
Thiên này gồm có mười ba phần: Đó là Thuật ý, Tinh tú, Nhật cung, Nguyệt cung, Hàn hử, Chiết dụng, Khuy doanh, Thăng vân, Chấn lôi, Kích điện, Giáng vũ, Thất hậu, Địa động.
Thứ nhất: PHẦN THUẬT Ý
Nếu xem trước khi thế giới chưa thành, thì đất trời vẫn còn mời mịt, sau khi chúng sinh trữ thực, tam quang mới bắt đầu thắp lên. Động mối từ tâm trong ý thức, mở mọi suy niệm tới phúc lành. Ngự dương khí để truyền quang, gạn bóng tối để phát sáng. Cưỡi giông gió để xoay vần, theo quy thình để hợp luật. Liệu mưa nắng trong Tam giới, treo sáng chiều ở bốn châu. Tuy sắp xếp tại Trời cao, cũng ứng điềm xuống hạ giới.
Đến như bậc đức sánh quân vương, vận hành theo vương đạo, kẻ bất nghĩa thần tử, quay hướng lại đường lành. Ba bước đắn đo, khen lời hay mà ban phúc, năm tầng xuất hiện, bày điềm xấu để răn gian. Ngửa trông tinh lượng, cúi sửa lương tâm.
Công năng của nhật nguyệt, to lớn biết dường nào!
Thứ hai: PHẦN TINH TÚ
Như kinh Đại Tập nói: “Bấy giờ, Long vương Ta Già La bạch Bồ tát Thù Trí La Bà rằng: “Thưa Đại sĩ, các tinh tú này vốn được ai nói đến? Ai làm sao lớn sao nhỏ? Ai làm mặt trời mặt trăng? Mặt trời sao lại ở giữa? Sao nào có trước, ở trong hư không? Lại do ai sắp đặt ba mươi ngày thành tháng, mười hai tháng thành năm? Sao gọi là thời? Sao lệ thuộc vào đâu? Sao có tên họ là gì? Sao nào tốt? Sao nào xấu? Cúng sao bằng gì? Thế nào là ngày, là đêm, là mặt trời, là mặt trăng, là tinh tú? Thế nào là di chuyển? Trong các vị Thánh, ngài là bậc chí tôn đệ nhất, xin thương xót thân phận rồng tôi mà giải thích giùm cho.
Chúng tôi nghe xong, liền giải tỏa mọi thắc mắc khở não và xin kính cẩn phụng hành”.
Bấy giờ, Bồ tát Thù Trí La Bà bảo các Long vương rằng: “Vào thời quá khứ, ở đầu hiền kiếp này, có vị Thiên tử tên là Đại Tam Ma Đa, đoan chính bậc nhất, thông minh tài trí, đem lẽ phải dạy dân. Thường chuộng thanh tịnh, không ham luyến ái, luôn giữ mình trong sạch. Nhà vua có hoàng hậu ham mê sắc dục. Nhà vua lại không lui tới, nên hoàng hậu không được thỏa lòng. Từng có một lần, hoàng hậu thấy trong bầy lừa có một con ló ra dương vật, khiến lòng dục phát động, liền thoát y bước đến. Con lừa ấy thấy vậy, bèn cùng giao phối mà có thai. Đầy ngày tháng, hoàng hậu cũng sinh con. Đầu, tai, miệng, mắt đều giống lừa, chỉ có thân hình là giống người, nhưng da dẽ thô nhám, lông lá rằn ri phủ đầy, chẳng khác loài vật. Hoàng hậu thấy qua, kinh hoàng sợ hãi, liền sai đem liệng vào hầm xí. May nhờ phước đức, đứa bé treo lơ lững không bị rơi xuống. Bấy giờ, có bà La sát tên là Lô Thần, thấy đứa bé không bị ô nhiễm, nghĩ rằng đứa bé có phước lành, liền đứng giữa không trung đưa tay ẳm lấy. Tắm rửa sạch sẽ, mang về núi Tuyết Sơn, cho bú mớm ăn uống, xem như con ruột chẳng khác chút gì. Đến khi trưởng thành, dạy cho phép uống thuốc tiên và cùng các đồng tử nhà Trời đêm ngày chơi đùa. Lại có vị Trời lớn cũng đến thương yêu chăm sóc. Đứa bé này ăn uống các loại quả ngon thuốc tốt, nên thân thể đổi khác. Phước tướng trang nghiêm, hào quang chiếu diệu. Nhờ thế, Thiên chúng đều cùng khen ngợi, gọi là Khư lô sắt tra, tiếng Hán là Thánh nhân đại tiên Lô thần. Nhờ nhân duyên này, trong núi Tuyết Sơn và các chỗ khác, đều mọc lên các loài hoa đẹp, quả ngon, thuốc quý, hương thơm, có các nguồn suối trong lành, các loài chim xinh xắn. Tại nơi ở, nơi đi, các thứ ấy đều dồi dào đầy đủ. Nhờ nhân duyên quả ngon thuốc quý phong phú này, các hình tướng thô tháp còn lại của đại tiên đều biến đổi. Thân thể trở thành đoan chánh, chỉ còn môi miệng giống lừa, nên gọi là vị Tiên môi lừa. Vị tiên môi lừa này theo học phép Thánh, trải qua sáu vạn năm, đứng nhón trên một chân, ngày đêm không hề buông xuống, lòng không cảm thấy mệt mỏi. Chư Thiên thấy đại tiên chịu khổ như vậy, bấy giờ, các Phạm chúng và Trời Đế-thích cùng chư Thiên khác trên cõi Dục giới và Sắc giới, đều cùng nhau tụ họp lễ bái, cúng dường, cho đến hết thảy các loài Rồng, A-tu-la, Dạ-xoa đều tề tựu đông đúc, còn có các tiên Thánh, người tu Phạm hạnh, đều đến bên vị Thánh nhân Lô thần này, tất cả đều cúng dường, chắp tay hỏi rằng: “Thánh nhân đại tiên muốn cầu xin điều gì, vì chư Thiên chúng tôi, hãy nói ra đi. Nếu có thể được, chúng tôi sẽ lập tức đáp ứng, không hề nuối tiếc”.
Bấy giờ, đại tiên Lô thần nghe xong, trong lòng lấy làm phước đức may mắn, liền trả lời rằng: “Chắc hẳn đã xứng đáng với lòng mong ước của ta rồi, nay xin nói sơ qua. Ta nhớ lại từ thưở tiền kiếp xa xưa, thấy giữa hư không có mặt trời mặt trăng, Nhị thập bát tú và Ngũ tinh, ngày đêm vận hành đúng phép, chiếu sáng cho thiên hạ. Ta từng mong ước hiểu biết rõ ràng, chỉ hiềm trí thức tối tăm, nên đã không ngại ngùng chịu bao gian khổ. Nay vào đầu hiền kiếp, gặp được chuyện hi hữu này. Tất cả chư Thiên, long thần các ngài, vì thương xót ta mà đến nơi đây, xin hãy thuyết minh công năng của mặt trời mặt trăng và các tinh tú, cũng như từ thuở xa xưa đã được an bài, cách thức vận hành, tính chất lành dữ tốt xấu. Xin giải thích đầy đủ theo nguyện vọng của ta.
Tất cả chư Thiên đều trả lời: “Thưa đại tiên, điều này rất sâu xa, không thuộc lãnh vực của chúng tôi. Nếu vì thương xót tất cả chúng sinh, từ thời quá khứ, xin đại tiên mau mau phát biểu ý kiến của ngài”. Bấy giờ, đại tiên Khu lô sắt tra mới bảo cùng tất cả chư Thiên: “Bắt đầu xếp đặt tinh tú, thì sao Mão trước tiên, rồi các sao khác tiếp theo mà vận hành giữa hư không. Thưa chư Thiên, nói sao Mão được xếp đặt trước tiên, điều ấy đúng chăng?”. Bấy giờ, vua Mặt trời nói rằng: “Sao Mão này thường vận hành giữa hư không, trải qua khắp bốn châu, thường làm điều thiện, giúp ích chúng ta. Nên biết rằng sao ấy thuộc về Hỏa thiên”. Lúc ấy, trong đại chúng có vị Thánh nhân tên là Đại Uy Đức, lại nói thế này: “Sao Mão ấy là con của em gái tôi. Sao ấy có bảy ngôi, hình như dao cạo tóc. Trong một ngày đêm, trải qua bốn châu, đi được ba mươi thời. Thuộc về Hỏa thiên, họ Tỳ da ni. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy cúng bằng bơ sữa đặc”.
Kế tiếp, xếp đặt Tất làm sao thứ hai, thuộc về Thủy tiên, họ Phả la đọa. Sao ấy có năm ngôi, hình như chĩa dựng đứng. Một ngày đêm đi được ba mươi thời. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng thịt hươu.
Kế tiếp, xếp đặt Chủy làm sao thứ ba, thuộc về Nguyệt thiên, tức là con của vua Mặt trăng, họ Tỳ lê già da ni. Sao ấy có ba ngôi, hình như đầu hươu. Một ngày đêm đi được mười lăm thời. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng cuống quả và quả.
Kế tiếp, xếp đặt Sâm làm sao thứ tư, thuộc về vua Mặt trời, họ Bà tư thất hy. Tính rất ác, nhiều sân hận. Sao ấy chỉ có một ngôi, hình như nốt ruồi của phụ nữ. Một ngày đêm đi được ba mươi lăm thời. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng bơ sữa.
Kế tiếp xếp đặt Tỉnh làm sao thứ năm, thuộc về vua Mặt trời, họ Bà tư thất hy. Sao ấy có hai ngôi, hình như dấu chân. Một ngày đêm đi được mười lăm thời. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng lúa trộn với mật ong.
Kế tiếp, xếp đặt Quỷ làm sao thứ sáu, thuộc về Tuế tinh thiên, là con của Tuế tinh, họ Bào ba na tỳ. Tính ôn hòa, thích tu phép thiện. Sao ấy có ba ngôi, hình như tướng bụng tròn của chư Phật. Một ngày đêm đi được ba mươi thời. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng bông lúa trộn với mật ong.
Kế tiếp, xếp đặt Liễu làm sao thứ bảy, thuộc về Xà thiên, tức là họ Xà. Sao ấy chỉ có một ngôi, hình như nốt ruồi của phụ nữ. Một ngày đêm đi được mười lăm thời. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng cháo sữa.
Bảy sao trên đây chủ trì ở cửa Đông.
Kế tiếp, xếp đặt sao thứ nhất của phương Nam là Thất tinh, thuộc về Hỏa thiên, họ Tân già da ni. Có năm ngôi sao, hình như bờ sông. Một ngày đêm đi được ba mươi thời. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng cháo nấu từ gạo lức và mè đen.
Kế tiếp, xếp đặt Trương làm sao thứ hai, thuộc về Phước đức thiên, họ Cù đàm di. Sao ấy có hai ngôi, hình như dấu chân. Một ngày đêm đi được ba mươi thời. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng quả Tỳ la bà.
Kế tiếp, xếp đặt Dực làm sao thứ ba, thuộc về Lâm thiên, họ Kiêu trần như. Sao ấy có hai ngôi, hình như dấu chân. Một ngày đêm đi được mười lăm thời. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng đậu xanh đậu đen nấu chín.
Kế tiếp, xếp đặt Chẩn làm sao thứ tư, thuộc về Sa tỳ lê đế thiên, họ Ca già diên, là con của Hiết tiên. Sao ấy có năm ngôi, hình như tay người. Một ngày đêm đi được ba mươi thời. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng cháo nấu từ hạt bông cỏ.
Kế tiếp, xếp đặt Giốc làm sao thứ năm, thuộc về Hỷ lạc thiên, họ Chất đa la diên ni, là con của Càn thát bà. Sao ấy chỉ có một ngôi, hình như nốt ruồi của phụ nữ. Một ngày đêm đi được mười lăm thời. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng cơm nấu từ các loại hoa.
Kế tiếp, xếp đặt Cang làm sao thứ sáu, thuộc về Ma đố la thiên, họ Cà chiên diên ni. Chỉ có một ngôi, hình như nốt ruồi của phụ nữ. Một ngày đêm đi được mười lăm thời. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng đậu xanh trộn với sữa và mật nấu chín.
Kế tiếp, xếp đặt Đê làm sao thứ bảy, thuộc về Hỏa thiên, họ Ta cát lợi đa da ni. Một ngày đêm đi được 3 thì. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng thức ăn nấu từ các loại hoa.
Bảy sao trên đây chủ trì cửa Nam.
Kế tiếp, lại xếp đặt sao thứ nhất của phương Tây là Phòng, thuộc về Từ thiên, họ A lam bà da ni. Sao ấy có bốn ngôi, hình như chuỗi ngọc. Một ngày đêm đi được ba mươi thời. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng rượu thịt.
Kế tiếp, xếp đặt Tâm làm sao thứ hai, thuộc về Đế-thích thiên, họ La diên na. Sao ấy có ba ngôi, hình như hạt đại mạch. Một ngày đêm đi được mười lăm thời. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng cháo gạo lức.
Kế tiếp, xếp đặt Vĩ làm sao thứ ba, thuộc về Liệp sư thiên, họ Ca già da ni. Sao ấy có bảy ngôi, hình như đuôi bò cạp. Một ngày đêm đi được ba mươi thời. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng thức ăn làm từ cuống quả.
Kế tiếp, xếp đặt Cơ làm sao thứ tư, thuộc về Thủy tiên, họ Mô xoa ca chiên diên ni. Sao ấy có bốn ngôi, hình như sừng trâu. Một ngày đêm đi được ba mươi thời. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng nước cốt của vỏ cây Ni câu đà.
Kế tiếp, xếp đặt Đẩu làm sao thứ năm, thuộc về Hỏa thiên, họ Mô già la ni. Sao ấy có bốn ngôi, hình như người mở đất. Một ngày đêm đi được bốn mươi lăm thì. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng bông lúa trộn với mật ong.
Kế tiếp, xếp đặt Ngưu làm sao thứ sáu, thuộc về Phạm Thiên, họ Phạm lam ma. Sao ấy có ba ngôi, hình như đầu trâu. Một ngày đêm đi được sáu thì. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng bơ sữa.
Kế tiếp, xếp đặt Nữ làm sao thứ bảy, thuộc về Tỳ nữu thiên, họ Đế lợi ca già da ni. Sao ấy có bốn ngôi, hình như hạt đại mạch. Một ngày đêm đi được ba mươi thời. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng thịt chim.
Bảy sao trên đây chủ trì ở cửa Tây.
Kế tiếp, lại xếp đặt sao thứ nhất của phương Bắc là Hư, thuộc về Đế-thích thiên, là con của Ta bà thiên, họ Kiều trần như. Sao ấy có bốn ngôi, hình như chim. Một ngày đêm đi được ba mươi thời. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng nước cốt đậu đen nấu chín.
Kế tiếp, xếp đặt Nguy làm sao thứ hai, thuộc về Đa la noa thiên, họ Đơn na ni. Một ngày đêm đi được mười lăm thời. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng cháo gạo lức.
Kế tiếp, xếp đặt Thất làm sao thứ ba, thuộc về Xà đầu thiên, là con của Hiết thiên, họ Xà đô ca ni câu. Sao ấy có hai ngôi, hình như dấu chân. Một ngày đêm đi được ba mươi thời. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng thịt và huyết.
Kế tiếp, xếp đặt Bích làm sao thứ tư, thuộc về Lâm thiên, là con của Bà lâu na, họ Đà nan xà. Sao ấy có hai ngôi, hình như dấu chân. Một ngày đêm đi được bốn mươi lăm thì. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng thịt.
Kế tiếp, xếp đặt Khuê làm sao thứ năm, thuộc về Phú sa thiên, họ A sắt tra bài ni. Sao ấy chỉ có một ngôi, hình như nốt ruồi của phụ nữ. Một ngày đêm đi được ba mươi thời. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng bơ sữa đặc.
Kế tiếp, xếp đặt Lâu làm sao thứ sáu, thuộc về Càn thát bà thiên, họ A-hàm bà. Sao ấy có ba ngôi, hình như đầu ngựa. Một ngày đêm đi được ba mươi thời. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng cơm đại mạch và thịt.
Kế tiếp, xếp đặt Vị làm sao thứ bảy, thuộc về Diêm ma la thiên, họ Bạt già tỳ. Sao ấy có ba ngôi, hình như chân đỉnh. Một ngày đêm đi được bốn mươi thời. Người chịu ảnh hưởng của sao ấy thì cúng bằng gạo lức, mè đen và táo hoang.
Bảy sao trên đây chủ trì ở cửa Bắc.
Trong hai mươi tám sao này, có năm sao một ngày đêm đi được bốn mươi lăm thời, ấy là các sao Tất, Sâm, Đê, Đẩu và Bích. Danh từ và ý nghĩa của hai mươi tám sao thật rộng lớn bao la, khó đạt đến chỗ thâm diệu, nên không thể nêu ra đầy đủ. Hôm nay khi ta nói sơ lược về hai mươi tám sao này, mong chư Thiên cùng nghe, thảy đều hoan hỷ. Bấy giờ, đại tiên Khư lô sắt tra, đứng trước đại chúng, chắp tay nói rằng: “Như thế, là đã xếp đặt xong thì, ngày, tháng, năm và các sao lớn nhỏ”. (Việc sắp đặt này, trước đây, có một quyển kinh nói đến, nhưng vì văn từ nhiều quá, nên không chép vào).
Sao gọi là có sáu thời? Xin thưa rằng tháng giêng, tháng hai gọi là thời nắng ấm. Tháng ba, tháng tư gọi là thời trồng trọt. Tháng năm, tháng sáu gọi là thời cầu mưa xuống. Tháng bảy, tháng tám gọi là thời thực vật sắp chín. Tháng chín, tháng mười gọi là thời lạnh cóng. Tháng mười một, tháng mười hai gộp lại thì tuyết nhiều của tháng mười hai này. Như thế, mười hai tháng chia làm sáu thì. Lại nữa, có tám sao lớn. Ấy là Tuế tinh, Huỳnh hoặc tinh, Trấn tinh, Thái bạch tinh, Thần tinh, Nhật tinh, Nguyệt tinh và Hà la hầu tinh. Lại nữa, có hai mươi tám sao nhỏ. Ấy là các sao từ Mão đến Vị đã nói ở trước. Như thế, ta đã theo thứ tự sắp đặt xong xuôi. Chư Thiên đều được nghe qua, có suy nghĩ gì không?
Bấy giờ, tất cả các Trời, Tiên, A-tu-la, Rồng và Na la đều chắp tay đáp rằng: “Vào hôm nay, giữa đại chúng chư Thiên, đại tiên là bậc đáng tôn kính nhất, cho đến các loại rồng và A-tu-la cũng không thể nào hơn. Trí tuệ và từ tâm của ngài thật là bậc nhất. Từ vô lượng kiếp, ngài đã không quên thương xót tất cả chúng sinh, nên hưởng được phước báo. Trong tất cả Thiên chúng, không ai có được trí tuệ như thế, diễn giải như thế. Lại càng không có chúng sinh nào có thể làm được như thế. Tất cả đều hoan hỷ, an lạc. Tốt đẹp thay! Hôm nay Ngài đã ổn định tất cả mọi chúng sinh”.
Bấy giờ, đại tiên Khư lô sắt tra lại nói thế này: “Trong một năm tròn mười hai tháng trước sau ấy, với công dụng ấy, và các tinh tú lớn nhỏ ấy, chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi, ta đã diễn giải trọn mọi quy luật. Bấy giờ, lại xếp đặt bốn đại Thiên vương vào bốn phía núi Tu-di. Mỗi phía một Thiên vương, để từ đó mỗi vị chăm lo lợi ích cho chúng sinh”. Tất cả đại chúng đều xưng tụng: “Tốt lành thay!” và đều hoan hỷ vô cùng. Bấy giờ, tất cả chư Thiên, rồng, Dạ-xoa, A-tu-la đều ngày đêm cúng dường đại tiên. Về sau, trải qua vô lượng kiếp, lại có đại tiên tên là Ca lực, xuất thế, diễn giải cách khác. Xếp đặt các tinh tú, tháng đủ thiếu, thời tiết căn bản (thấy kinh có nói). Nay cứ tạm thời xếp đặt hai mươi tám sao, theo chỗ lệ thuộc khác nhau, nên mỗi sao đều có linh nghiệm riêng. Bởi thế, kinh Đại Tập nói: “Bấy giờ, Phật bảo các chúa của thế giới Ta bà là Đại Phạm Thiên vương, Thích-đề-hoàn nhân và bốn Thiên vương rằng: “Đại tiên thời xưa làm cách nào xếp đặt các tinh tú lớn nhỏ để hộ trì quốc độ, nuôi dưỡng chúng sinh?”. Các Đại Phạm Thiên vương bạch Phật rằng: “Đại tiên thưở xưa đã xếp đặt các tinh tú lớn nhỏ để hộ trì quốc độ, nuôi dưỡng chúng sinh như sau. Tại bốn phương, mỗi phương đều có chủ trì riêng. Phương Đông có bảy sao: Một là Giốc, chủ trì cho loài chim. Hai là Cang, chủ trì cho những người xuất gia cầu học Thánh đạo. Ba là Đê, chủ trì cho chúng sinh sống dưới nước. Bốn là Phòng, chủ trì cho những người đi xe kiếm lợi. Năm là Tâm, chủ trì cho nữ giới. Sáu là Vĩ, chủ trì cho chúng sinh sống ở doi bãi. Bảy là Cơ, chủ trì cho thợ làm đồ gốm. Phương Nam cũng có bảy sao: Một là Tỉnh, chủ trì cho thợ làm kim khí. Hai là Quỷ, chủ trì cho tất cả quân vương đại thần. Ba là Liễu, chủ trì cho loại rồng ở Tuyết Sơn. Bốn là Tinh, chủ trì cho phú hộ. Năm là Trương, chủ trì cho kẻ trộm cắp. Sáu là Dực, chủ trì cho thương gia. Bảy là Chẩn, chủ trì cho nước Tu la tra. Phương Tây có bảy sao: Một là Khuê, chủ trì cho người đi ghe tàu. Hai là Lâu, chủ trì cho thương gia. Ba là Vị, chủ trì cho nước Bà Lâu Ca. Bốn là Ngang, chủ trì cho loài trâu. Năm là Tất, chủ trì cho tất cả chúng sinh. Sáu là Chủy, chủ trì cho nước Tỳ-đề-ha. Bảy là Sâm, chủ trì cho Sát lợi. Phương Bắc có bảy sao: Một là Đẩu, chủ trì cho nước Kiêu Bộ Sa. Hai là Ngưu, chủ trì cho Sát lợi và nước An đa bát kiệt na. Ba là nữ, chủ trì cho nước Ương già ma già đà. Bốn là Hư, chủ trì cho nước Na Già La. Năm là Nguy, chủ trì cho việc đội mũ đẹp. Sáu là Thất, chủ trì cho nước Càn đà la, Thâu lô na và các loài Rồng, rắn bò bằng bụng. Bảy là Bích, chủ trì cho các nhạc công lành nghề Càn thát bà. Đại đức Bà già bà, đại tiên thưở xưa, đã xếp đặt các tinh tú lớn nhỏ ở bốn phương để hộ trì quốc độ, nuôi dưỡng chúng sinh như thế”. Bấy giờ, Phật bảo các Đại Phạm Thiên vương rằng: “Các ông hãy nghe kỹ: Đối với thế gian, Thiên tiên, ta có tất cả mọi kiến giải cao siêu nhất, cũng đã sai các tinh tú lớn nhỏ hộ trì quốc độ, nuôi dưỡng chúng sinh. Các ông tuyên bố cho các tinh tú ấy biết rằng ta đã phân chia quốc độ, chúng sinh như thế. Mỗi một tinh tú đều theo phận mình hộ trì, dưỡng dục chúng sinh. Các nước lớn nhỏ đều lệ thuộc vào hai mươi tám tinh tú ấy”.
Hỏi: “Các sao này có hình dáng lớn nhỏ như thế nào?”.
Đáp: Theo kinh Tăng-nhất- A-hàm nói: “Sao lớn thì một do tuần, sao nhỏ thì hai trăm bộ”. Kinh Lâu Thán nói: “Sao lớn có chu vi bảy trăm dặmm, sao nhỏ hai trăm dặm. Sao là cung điện của chư Thiên”. Luận Du Già nói: “Trong các tinh tú, sao lớn thì một tám câu lô xá, sao trung bình thì 10 câu lô xá, sao nhỏ nhất thì bốn câu lô xá”.
Thuật rằng: “Nếu theo nội điển, các tinh tú này là cung điện của chư Thiên, trong đó, chư Thiên cư trú. Tùy theo sức phước báo, xuất hiện hào quang. Nếu theo sách thế gian thì bảo là đá. Thế nên, đời Tống có sao băng, mảnh rơi xuống như đá. Có người bảo không phải sao băng, chính là đá của thiên hà rơi xuống. Bởi vậy, sách thế gian nói rằng: “Sông trên trời và sông dưới đất cùng liền nhau, nên ở Hà Nội thường có đá rơi xuống”. Như kinh Tu-di Tượng Đồ Sơn nói: “Trên trời có sông tên là Da ma la di chuyển giữa không trung. Lâu lâu, có đá cát lớn nhỏ rơi lọt xuống, được cho là sao”. Đây không phải là chánh kinh, chẳng qua là do người đời ngụy tạo, đồn đại nhảm nhí, không đúng với lời Phật nói.
Vào niên hiệu Trinh Quan thứ 18 (6), sau ngày Bính Thân, tháng mười, tại huyện Văn Thủy, giữa Phần Châu và Tinh Châu, trời nổi sấm sét lớn, trong mây, giữa không trung, rơi xuống một hòn đá, lớn bằng mỏ chim trĩ. Trên lưng gồ, dưới bụng phẳng. Huyện thừa đó là Trương Hiếu Tĩnh cùng quan viên ở Phần Châu đem tâu lên. Bấy giờ, Trưởng lão chùa Bồ Đề của nước Ma Già Đa bên Tây Vực đến Lạc Dương, nổi tiếng hiểu khắp trong ngoài. Nhà vua ban sắc hỏi. Trưởng lão tâu rằng: “Đó là thức ăn của rồng. Do hai con tranh cãi, nên rơi xuống như đá”. Nhà vua chuẩn tấu và phán rằng: “Cứ gì từ trời rơi xuống, đều gọi là sao!” Than ôi! Vật thể của trời cao, phàm thế không ước lượng nổi, làm cho người ta khó hiểu, không gì bằng trời đất. Thế gian nói rằng: “Trời là tinh khí. Mặt trời là dương tinh. Tinh tú là tinh hoa của vạn vật”. Đó là điều Nho giáo xếp đặt. Mỗi khi sao băng, liền hóa thành đá. Nếu tinh hoa là đá thì không thể phát ra hào quang. Đặc tính của đá lại nặng nề, liệu gắn mắc vào đâu? Đường kính của sao nhỏ có hằng trăm dặm, đầu đuôi của sao lớn cách nhau hằng mấy vạn dặm. Vật hàng trăm dặm có liên quan với vật mấy vạn dặm, rộng hẹp nghiêng lệch, thường không dư thiếu. Vả lại, sao cùng mặt trời mặt trăng có hào quang giống nhau, chỉ khác nhau về độ lớn nhỏ. Thế thì mặt trời mặt trăng cũng là đá chăng? Đá thì rắn chắc, quạ thỏ làm sao dung thân? Đá ở trong khí, liệu có thể vận chuyển một mình? Mặt trời mặt trăng và các tinh tú, nếu là khí, mà khí thì nhẹ nổi, mới hợp cùng trời. Đi lại, xoay vần không được sai chạy. Thỉnh thoảng nhanh chậm, đâu có như nhau? Vì sao mặt trời mặt trăng và các tinh tú lớn nhỏ có độ số, di chuyển khác nhau, lại cho là khí rơi xuống, bỗng nhiên thành đá? Đất là phần cặn, đáng lý phải chìm lắng sâu dày. Đào đất gặp suối phun vọt lên trên. Dưới lớp nước ấy, còn có vật gì? Sông ngòi, trăm suối phát sinh từ đâu? Đổ về biển Đông, sao không đầy tràn? Từ ao đến làng, rạch chảy về đâu? Hòn đá cháy sém, khí nào như thế? Thủy triều lên xuống, do ai điều khiển? Sông trời lơ lửng, sao không rơi xuống? Thế nước tụ chỗ thấp, sao lại vọt lên cao? Thưở trời đất mới tạo dựng, đã có tinh tú rồi, khi còn chưa phân chín châu, chưa chia các nước. Việc phân chia khu vực, theo độ số sao đi, có từ thời phong kiến trở lại, do ai cắt đặt? Số nước thì có tăng giảm, lượng sao lại không thay đổi. Chỉ điềm họa phước, không hề sai chạy. Thiên tượng bao la, tinh tú rất nhiều, tại sao chỉ phân dã ở Trung Quốc mà thôi? Mão làm đầu cờ, Hung Nô thứ hai, Tây là Hồ, Đông là Di, còn Giao Chỉ vẽ trán, tại sao lại bỏ đi? Theo đấy mà xét, thì người ta chẳng hiểu gì về sao. Há có thể lấy trí lự nhân thế tầm thường để ước thúc liệu định vũ trụ ngoại giới?
Cái mà người đời tin, chỉ là tai và mắt. Ngoài điều đó ra, đều làm cho người ta nghi ngờ. Nho giáo nói về trời chỉ có mấy nghĩa là hoặc mịt mờ, hoặc như cái lọng, vụt như cái vòm, vụt như lắng yên. Tính hết chu vi, đủ che vườn cảnh. Nếu có ai tận mắt nhìn xem, đều giống nhau không khác. Cứ ước lượng về trời như thế, há đủ dựa theo? Vì sao lại cả tin vào sự ức đoán của người phàm, đâm ra nghi ngờ diệu lý của bậc đại Thánh, để nhất quyết phủ nhận vô lượng thế giới, vô biên số kiếp? Vả lại, Trâu Diễn cũng có thiên nói về Cửu Châu rằng: “Người ở trên núi không tin có cá lớn như thân cây. Người ở dưới biển không tin có cây lớn như thân cá. Hán Vũ Đế không tin có keo dán dây đàn đứt. Người nước Ngụy không tin có vải chịu được lửa. Người Hồ thấy gấm, không tin có tằm ăn dâu, nhả tơ làm thành. Người Ngô sống ở Giang Nam, không tin có chăn mền đắp được trăm người. Đến khi sang Hà Bắc, không tin có chiếc thuyền chở nổi hai vạn thạch”. Đấy đều là kinh nghiệm thực tế. Cũng giống trên đời có thầy pháp và các trò ảo thuật, như có thể dẫm chân trên lửa, đi trên đầu mũi nhọn, dời giếng, trồng dưa. Chỉ trong khoảnh khắc, biến hóa muôn vàn. Sức người còn có thể làm như thế, huống gì sức thần thông cảm ứng cao siêu không thể suy nghĩ đến kịp, khiến cho tràng phan bảo tọa, chỉ rộng một trăm do tuần, hóa thành cõi Tịnh độ, mọc lên tháp Phật một cách thần kỳ. Hơn nữa, truyện Tây Quốc Hành của Vương Huyền Sách kể lại: “Vào năm Hiển Khánh thứ tư, họ Vương đi sứ sang nước Bà Lật Xà. Ông giúp người Hán bày trò ngũ nữ hý, có năm cô gái múa từ ba cây dao tăng lên đến mười cây. Rồi lại bày trò thằng kỹ, đi trên dây treo giữa không trung. Vừa đi vừa mang giày rồi cởi liệng. Tay múa ba loại đồ binh: đao, thương, thuẩn. Chen vào các loại hình kỹ xảo ấy là các trò ảo thuật cắt lưỡi, rút ruột, nhiều không kể xiết.
Thứ ba: PHẦN NHẬT CUNG
Theo kinh Khởi Thế nói rằng Phật bảo các Tỳ-kheo: “Cung điện của vua Mặt trời, ngang dọc dài đúng sáu mươi mốt do tuần, trên dưới cũng như thế, do hai loại vật liệu tạo thành. Nhìn thẳng, vuông vắn như cái nhà, nhìn nghiêng, tựa như hình tròn. Hai loại vật liệu gì? Đó là vàng và pha lê. Một mặt có hai phần là vàng ròng, thanh tịnh sáng chói. Một mặt có một phần là pha lê thuần chất, thanh tịnh sáng chói. Có năm thứ gió hổi cho di chuyển. Là năm thứ gió gì? Một tên là Trì, hai tên là Trụ, ba tên là Tùy thuận chuyển, bốn tên là Ba la ha ca, năm tên là Tương hành. Phía trước cung điện mặt trời đặc biệt có vô số chư Thiên đi đầu. Khi đi, mỗi vị thường hưởng thụ hoan lạc và đều tên là Lao hành (theo kinh Trường A-hàm nói rằng tường và đất của cung điện mặt trời mỏng manh như tinh hoa, được năm thứ gió giữ lại). Lại nữa, trong cung điện mặt trời có loại vàng thắm sắc Diêm-phù đàn kim đem làm xe quý, cao sáu mươi do tuần, vuông vức tám do tuần, được trang hoàng rất đẹp. Trong đó, vua Mặt trời và quyến thuộc hưởng thụ đầy đủ hoan lạc ngũ dục. Vua Mặt trời thọ năm trăm tuổi, con cháu kế thừa trị vì ở đấy. Cung điện tồn tại trọn vẹn một kiếp. Hào quang của thân vua Mặt trời chiếu diệu xe quý. Ánh sáng của xe quý lại chiếu diệu cung điện. Hào quang và ánh sáng cùng tụ hội, chiếu diệu khắp cả bốn châu lớn và các thế giới khác. Thân của vua Mặt trời, xe quý và cung điện có một ngàn tia hào quang và ánh sáng. Năm trăm tia phát ra chiếu diệu hai bên. Năm trăm tia phát ra chiếu diệu phía dưới. Cung điện mặt trời thường di chuyển không ngừng. Sáu tháng đi về phương Bắc. Trong ngày mồng một, dần dần rời khỏi hướng Bắc 6 câu lô xá (theo kinh Tạp Bảo Tạng nói năm dặm), nhưng không hề rời nhập quỹ. Sáu tháng đi về phương Nam, rồi cũng vào ngày mồng một, dần dần rời khỏi hướng Nam 6 câu lô xá, không hề đi sai nhật quỹ. Khi cung điện mặt trời đi trong sáu tháng ấy, cung điện của vua Mặt trăng, vào ngày rằm, cũng di chuyển như thế”.
Thứ tư: PHẦN NGUYỆT CUNG
Như kinh Khởi Thế nói rằng Phật bảo Tỳ-kheo: “Cung điện của vua Mặt trăng ngang dọc dài đúng 9 do tuần, tường rào bốn phía do bảy loại bảo vật tạo thành. Cung điện mặt trăng thuần túy bằng bạc ròng và lưu ly xanh đen lẫn. Hai phần bằng bạc ròng trong sạch không bợn, ánh sáng rất xán lạn. Phần còn lại bằng lưu ly xanh cũng rất trong sạch, xuyên thấu suốt trong ngoài, ánh sáng chiếu xa. Cũng có năm thứ gió giúp đỡ để di chuyển (năm thứ gió như trước). Cung điện mặt trăng dựa vào hư không mà vận hành. Cũng có vô lượng cung điện của chư Thiện đi trước, thường hưởng thụ hoan lạc. Trong cung điện này, cũng có xe lớn, làm bằng lưu ly xanh, cao mười sáu do tuần, rộng tám do tuần. Trong đó, vua Mặt trăng và các Thiên nữ, dùng các loại công đức ngũ dục, cùng nhau hưởng thụ hoan lạc, tùy ý di chuyển. Vua Mặt trăng ấy thọ năm trăm tuổi, con cháu kế thừa trị vì ở đấy và cung điện này tồn tại một kiếp. Hào quang của thân vua Mặt trăng chiếu diệu xe bằng lưu ly xanh. Ánh sáng của xe ấy chiếu diệu cung điện mặt trăng. Ánh sáng của cung điện mặt trăng chiếu diệu khắp bốn châu lớn. Vua mặt trăng ấy có năm trăm ánh hào quang chiếu diệu phía dưới, năm trăm ánh hào quang chiếu diệu hai bên. Thế nên, vua Mặt trăng tên là Nghìn hào quang, lại cũng là tên Hào quang mát lạnh”.
Lại nữa, do nhân duyên nào, cung điện mặt trăng hiện ra dần dần? Phật đáp: “Cung điện mặt trăng hiện ra dần dần là do ba nguyên nhân sau: Một là mặt sau xoay lại. Hai là do thân của chư Thiên có màu xanh đeo chuỗi anh lạc, tất cả đều xanh. Vào giữa tháng, thường che lấp cung điện của mình. Do bị che lấp, nên cung điện mặt trăng hiện ra dần dần. Ba là do từ cung điện mặt trời, có sáu mươi tia sáng đồng thời phóng ra che kín vầng trăng ấy. Do nhân duyên này, nên cung điện mặt trăng hiện ra dần dần”.
Lại do nhân duyên nào, cung điện mặt trăng này tròn trịa đầy đặn? Cũng do ba nhân duyên khiến trở nên như thế. Một là vào lúc bấy giờ, mặt trước xoay lại. Hai là do thân của chư Thiên có màu xanh, tất cả đều xanh. Vào khoảng nữa tháng, thường ẩn dấu mình. Do đó, vào ngày rằm, cung điện mặt trăng có hình dáng tròn trịa đầy đặn nhất. Ánh sáng xán lạn rực rỡ. Thí dụ như trong chỗ có nhiều dầu, lửa đuốc càng sáng rực. Các ngọn đèn nhỏ đều bị khuất lấp. Như thế, vào ngày rằm, cung điện mặt trăng thường che lấp ánh sáng của mình. Ba là, lại nữa, do sáu mươi tia sáng của cung điện mặt trăng này tròn trịa đầy đặn. Ở khắp mọi nơi đều bị che lấp. Lúc ấy, ánh sáng mặt trời không thể che lấp được nữa.
Lại do nhân duyên nào, cung điện mặt trăng, ở phần trăng tối vào ngày rằm, tất cả không hiện ra? Do cung điện mặt trăng này, ở phần trăng tối vào ngày rằm, nằm gần nhất với cung điện mặt trời. Vì bị ánh sáng mặt trời ấy che lấp, nên tất cả không hiện ra.
Lại do nhân duyên nào gọi tên là tháng? Do cung điện mặt trăng, ở phần trăng tối, từ ngày mồng một trở đi, cho đến ngày ba mươi, dần dần giảm bớt uy lực ánh sáng của mình. Vì thế, gọi khoảng thời gian này là tháng. (Ở phương Tây, một tháng chia làm trăng sáng, trăng tối. Vào đầu tháng, từ ngày mồng một đến ngày rằm, gọi là trăng sáng. Từ ngày mười sáu trở đi, đến ngày ba mươi, gọi là trăng tối. Ở đây gom chung trăng tối thành một tháng).
Lại do nhân duyên nào, trong cung điện mặt trăng có các ảnh hiện ra? Do trong châu lớn này có cây Diêm-phù. Vì có cây này, nên mới gọi là châu Diêm-phù. Cây ấy cao lớn, ảnh hiện lên trên mặt trăng. Hơn nữa, luận Du Già nói: “Do trong biển lớn có các loài cá và ba ba, ảnh của chúng hiện lên trên mặt trăng. Thế nên trong đó có các bóng tối hiện ra”. (Theo Tây Quốc truyện nói: “Ngày xưa có con thỏ tu hạnh Bồ tát. Thiên đế thử nó, xin thịt để ăn. Nó liền nhảy vào trong lửa. Thiên đế thường tình, đem xác cháy sém của nó bỏ lên mặt trăng, khiến cho tất cả chúng sinh sau này đưa mắt lên nhìn thấy, biết đấy là nhục thân của vị Bồ tát thực hành hạnh nguyện từ bi”).