Tìm Kinh Sách
 
        Kinh Sách FULL

Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú giảng lần thứ 4 năm 2014

Phật sở hành xứ, quốc ấp khu tụ, mĩ bất mông hóa, thiên hạ hòa thuận, nhật nguyệt thanh minh, phong vũ dĩ thời, tai lệ bất khởi, quốc phong dân an, binh qua vô dụng, sùng đức hưng nhân, vụ tu lễ nhượng, quốc vô đạo tặc, vô hữu oan uổng, cường bất lăng nhược, các đắc kỳ sở.
Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú
(Tập 1) 
Người giảng: Lão pháp sư Tịnh Không.
Thời gian: ngày 09 tháng 03 năm 2014
Địa điểm: giảng tại Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà HongKong.
(Đây là bộ khoa chú giảng lần thứ 4 khi ngài ở độ tuổi gần 90)
Các vị pháp sư, các vị đồng tu, xin chào mọi người, xin mời ngồi. Hôm nay là ngày 09 tháng 03 năm 2014, chúng ta bắt đầu học tập “Đại Kinh Khoa Chú” lần thứ 4. Mỗi lần học tập đều giúp cho chính chúng ta hướng nâng lên trên.

 

Chương 25: Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014 - Tập 13 - Phần 1

Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sanh, văn ngã danh hiệu, chí tâm tín nhạo, sở hữu thiện căn, tâm tâm hồi hướng, nguyện sanh ngã quốc, nãi chí thập niệm, nhược bất sanh giả, bất thủ chánh giác, duy trừ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp.

 

Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú

(Tập 13A-13B)

 

Người giảng: Lão pháp sư Tịnh Không.

Thời gian: Ngày 24 tháng 03 năm 2014

Địa điểm: Giảng tại Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà HongKong.

 

Các vị pháp sư, các vị đồng tu! Xin mời ngồi! Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo.

 A Xà Lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng Già, chư chúng trung tôn.

 A Xà Lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng Già chư chúng trung tôn,

A Xà Lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật đà, lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng Già chư chúng trung tôn.

Mời xem “Đại Kinh Khoa Chú”, tờ thứ 160, hàng sau cùng, xem chú giải của Niệm Lão:

“Phù chúng sanh chi sanh diệt tâm, xứ xứ năng duyên, độc bất năng duyên ư Bát Nhã, tu vị đăng biệt giáo địa thượng chi Bồ Tát, phương năng khế nhập, ư vô trụ thời tức sanh tâm, ư sanh tâm thời tức vô trụ”[1].

Chỗ này đều là nói chân tướng sự thật! Phàm phu mê mất đi tự tánh, trên kinh đại thừa thường nói “một niệm bất giác mà có vô minh”. Cái niệm “bất giác” này chính là “vô minh”. Vậy cái gì là “minh”? “Giác”’là “minh”. Làm “giác” mất đi rồi thì biến thành “bất giác”.

“Giác” là tất cả pháp tự nhiên đều thông đạt. Gọi “bổn giác” là vì nó vốn dĩ là giác ngộ. Một niệm bất giác thì bổn giác liền biến chất, biến thành A Lại Da. A Lại Da chính là bất giác. Mười pháp giới y chánh trang nghiêm đều là nương vào A Lại Da mà khởi. A Lại Da là tâm sanh diệt, còn Giác tâm không sanh không diệt, giác tâm chính là tự tánh.

A Lại Da nơi nơi nó đều có thể năng duyên. Thực tế ba tâm đều là một thể, từ chấp trì chủng tử gọi là A Lại Da, từ phân biệt gọi là Ý thức, từ chấp trước gọi là Mạt Na. Thế là chúng ta liền biết Mạt Na cùng Ý thức chính là tác dụng của A Lại Da, đó là hai chủng loại tác dụng lớn, một cái là phân biệt, một cái là chấp trước. Chấp trước là căn bản của “kiến tư phiền não” (phiền não chướng), phân biệt là căn bản của (trần sa phiền não) “sở tri chướng”. Đệ lục Ý thức năng lực năng duyên rất lớn, tận hư không khắp pháp giới nó thảy đều duyên đến, nhưng lại chẳng thể duyên đến “Bát Nhã”. “Pháp thân, Bát nhã, Giải thoát” là “tam đức” của tự tánh, nó duyên không đến Pháp thân, duyên không đến Bát Nhã. Vì sao vậy? Vì Pháp thân, Bát Nhã đều không có hình tướng, còn nó duyên phải có đối tượng. Bạn xem năm căn trước: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, những thứ nó có thể duyên đều là hiện tượng vật chất. Nhãn duyên sắc, nhĩ duyên thanh, tỷ duyên hương, thiệt duyên vị, thân duyên xúc, gọi là ngũ trần, nó có đối tượng. Còn đệ lục ý thức là tâm, nó không phải vật chất, nó là một ý niệm, ý niệm năng duyên pháp, nó có thể nghĩ quá khứ, nó có thể nghĩ vị lai, công năng lớn nhất, 51 tâm sở thảy đều tương ưng với nó, không có thứ nào không tương ưng. Cho nên trên kinh Phật nói, đối ngoại nó có thể duyên hư không pháp giới, đối nội nó có thể duyên đến “tam tế tướng” của A Lại Da là nghiệp tướng, chuyển tướng, cảnh giới tướng của A Lại Da.

Nghiệp tướng hiện tại khoa học gọi là năng lượng. Nghiệp tướng là hiện tượng sóng động, chính là một niệm bất giác; Chuyển tướng chính là ý niệm, khoa học gọi là tin tức; Cảnh giới tướng chính là vật chất mà khoa học gia gọi. Cảnh giới tướng hiện tại gọi nó là hiện tượng vật chất, tương đối với nó là hiện tượng tinh thần, hiện tượng tinh thần chính là tin tức, chính là ý niệm (mà nhà Phật gọi là “chuyển tướng”), tất cả pháp từ tâm tưởng sanh chính là từ ý niệm.

Đích thực nhà vật lý lượng tử học hiện đại đem mục tiêu liền đối chuẩn ba vấn đề này: Vật chất bị phá vỡ ra, họ triệt để đã làm rõ ràng rồi; Nhưng hiện tại “tin tức” họ vẫn chưa làm cho rõ ràng, rốt cuộc từ nơi nào đến, họ không hề biết. Vậy hiện tượng vật chất theo các khoa học gia là gì? Ba năm gần đây khoa học gia phát hiện ra, tiến sĩ Phổ Lãng Khắc, người Đức dẫn đầu một nhóm nhỏ chuyên môn nghiên cứu vật chất xem rốt cuộc nó là gì. Họ tìm ra được vật chất nhỏ nhất, nhỏ đến không thể nhỏ hơn mà ở trên kinh Phật gọi là “sắc cực vi”.

“Vi” là vi tế, “sắc” tướng cực kỳ vi tế, mắt thịt không thể xem thấy, thiên nhãn cũng không xem thấy, huệ nhãn của A La Hán cũng không xem thấy. Trên kinh Phật nói huệ nhãn của A La Hán chỉ có thể xem thấy vi trần, còn người trời Dục giới, trời Sắc giới đều không xem thấy vi trần, nhưng A La Hán có thể xem thấy. Vi trần đó là thứ gì? Đó chính là trong khoa học hiện tại gọi là “nguyên tử”. Khoa học gia 80 năm trước phát hiện ra nguyên tử, họ cho rằng nguyên tử là vật chất cơ bản, không thể phân nhỏ nữa, là nhỏ nhất rồi. Nào ngờ những năm gần đây khoa học không ngừng đang phát triển, ngày mới càng mới, máy móc mới phát minh ra có năng lực nắm được phần ngàn triệu (1/109) của một giây, có thể nắm lấy được. Việc này ngày trước có nằm mơ cũng không dám nghĩ tới. Máy móc cao độ như vậy mới tìm ra được “sắc cực vi” mà trên kinh Phật đã nói, còn danh từ của khoa học gọi nó là “trung vi tử”, hoặc giả gọi là “vi trung tử” đều được, đây mới là vật chất nhỏ nhất, không thể phân nữa, vì phân nữa thì không còn. “Sắc cực vi” này Phật cũng còn gọi nó là “Lân hư trần”. “Lân” là hàng xóm với hư không, chính là nói không thể phân ra nữa, nếu phân ra thì không còn, thì chính là hư không.

Nhưng khoa học gia vẫn là lại đem nó phân ra, vừa phân ra thật không còn. Vậy họ phát hiện ra cái gì? Phát hiện ra là hiện tượng sóng động của ý niệm. Thế là vật chất bị phá vỡ ra thì vật chất là giả, là huyễn tướng của ý niệm sanh ra mà chúng ta ngộ nhận đem nó cho là vật chất, kỳ thật là giả. Nếu đơn độc một cái vật chất này thì chúng ta không thể phát hiện ra được, bởi vì nó quá nhỏ, tần suất sanh diệt quá cao. Nếu y theo Bồ Tát Di Lặc đã nói thì thời gian tồn tại của nó chỉ là một ngàn sáu trăm triệu phần (1/1.600 triệu) của một giây. Hay nói cách khác, một giây nó sanh diệt bao nhiêu lần? Niệm trước diệt niệm sau sanh. Một giây sanh diệt một ngàn sáu trăm triệu lần, đơn vị ở đây là triệu. Ở vào tần suất cao như vậy thì bạn làm sao có thể biết được? Đây gọi là gì? Gọi là một niệm, cái sanh diệt chính là một niệm, một niệm chính là một cái sanh diệt.

Từ một niệm mà nói thì đây là hiện tượng tâm lý, hiện tượng sanh diệt. Ngay trong một niệm này đầy đủ cả năm uẩn. Chúng ta về trước đối với năm uẩn trên kinh Phật nói đều không làm cho rõ ràng, nên đều sanh ra hiểu lầm về “sắc, thọ, tưởng, hành, thức”. “Tâm Kinh” người đọc quá nhiều, có rất nhiều người dùng nó vào thời khoá sớm tối, trong đây có nói “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Ai “chiếu kiến”? Hiện tại khoa học gia đã nắm được, thế nhưng vẫn không thể làm được đến cứu cánh, không nói được rõ ràng như trên kinh Phật đã nói. Bạn xem họ phát hiện ra vi trung tử, chính là đã phát hiện ra sắc, ra thọ, tưởng, hành thức, nhưng họ không nói được rõ ràng như vậy, họ chỉ nói được ý niệm, sóng động sanh ra hiện tượng.

Nhưng bạn xem Phật nói trong cái ý niệm này nó có thọ, có tưởng, có hành, có thức, nói được rõ ràng đến như vậy. Trong vật chất cơ bản mà khoa học gia gọi, hay còn gọi “sắc cực vi” như Phật nói này nó đầy đủ “sắc, thọ, tưởng, hành, thức”, cũng chính là nói một “vi trung tử” này, nó là sống, nó không phải chết, nó có cảm thọ, nó sẽ có tưởng, nó có hành (hành là tiếp nối không ngừng, niệm trước diệt niệm sau sanh gọi là hành), chính là tiếp nối không ngừng (trên thực tế nó là tương tợ tương tục, không phải là chân thật tương tục, vì chân thật tương tục thì phía trước cùng phía sau phải là tương đồng, nhưng ở đây phía trước và phía sau của nó không như nhau). Khi chúng ta xem thấy khoa học báo cáo, mới bỗng nhiên hiểu ra việc này thì ra là như vậy. Điều này đã khẳng định Phật là nhà khoa học cừ khôi, làm sao Phật thấy được? Đây là áo mật của vũ trụ, khởi nguồn khởi đầu của vật chất, khởi nguồn của tinh thần.

Khởi tâm động niệm khởi đầu đó là gì? Khoa học đem nó làm một mệnh đề để nghiên cứu, còn trên kinh Phật nói với chúng ta một niệm bất giác gọi là nghiệp tướng, cái nghiệp tướng này chính là bản thể của A Lại Da. Từ cái nghiệp tướng này sanh ra ý niệm gọi là chuyển tướng, chuyển là chuyển biến. Nghiệp tướng là căn bản, chuyển tướng là chuyển biến là cành lá. Từ trong chuyển biến sanh ra sắc, chính là hiện tượng vật chất. Cho nên về đối nội, đệ lục ý thức có thể duyên đến A Lại Da, có thể duyên đến sắc cực vi, nhưng không thể duyên đến tự tánh. Đối ngoại thì sao? Khoa học hiện tại đi hai đường cực đoan, một cái là vũ trụ hoằng quan, nghiên cứu thiên văn, cái thứ hai đi theo phương hướng ngược lại, nghiên cứu thế giới vi quan, chính là cực nhỏ, cực kỳ nhỏ, họ đều đã có thành tựu. Đặc biệt là lượng tử lực học chính là nghiên cứu vũ trụ vi quan, cũng là tương đồng với trên kinh Phật nói, nhưng hiện tại vũ trụ vi quan họ vẫn chưa phát hiện ra. Tuy nhiên, còn có một vấn đề lớn, đó chính là “lớn nhỏ không hai” (hoằng quan và vi quan). Vi trung tử (thế giới vi quan) cực kỳ vi tế, trên kinh Phật nói “hạt cải chứa Tu Di, núi Tu Di để trong hạt cải, hạt cải không phình to núi Tu Di không thu nhỏ”, vậy thì làm sao để vào? Cái điểm này giống như  khoa học hiện tại dùng thẻ nhớ. Bạn thấy thẻ nhớ đại khái còn nhỏ hơn so với đầu ngón tay út, nhưng trong đó cất chứa rất nhiều tin tức, còn có rất nhiều hình ảnh, bạn từ trong vi tính có thể xem thấy. Đây chính là “hạt cải chứa Tu Di”. Phật nói còn thần kỳ hơn đây chính là “cực vi chi vi”, chính là trong vi trung tử có vũ trụ, cả thảy vũ trụ ở ngay trong vi trung tử.

Nó (tự tánh) có thể hiện tướng hay không? Có thể hiện! Đại sư Huệ Năng nói “Nào ngờ tự tánh năng sanh vạn pháp”, cả thảy vũ trụ là do nó hiện, nó hiện nhưng nó không phình to, hiện ra lớn nhỏ, là một không phải hai. Cực diệu! Hay nói cách khác trong Phật pháp nói với chúng ta“tận hư không khắp pháp giới đều là từ tâm tưởng sanh, đều là tự tánh biến hiện. Tâm hiện, thức biến”. Hiện tướng là tâm, tâm chính là tự tánh, tự tánh hiện. Còn sanh ra biến hoá, đem nó biến thành sáu cõi, biến thành mười pháp giới thì đó là A Lại Da. A Lại Da năng biến, tự tánh năng hiện. Hay nói cách khác A Lại Da không thể hiện tướng mà nó là năng biến, đem tự tánh hiện ra cảnh giới biến hóa khác đi. Còn tự tánh hiện là “pháp giới nhất chân” mà ở Tịnh Tông gọi là Cõi Thật Báo Trang Nghiêm. “Thật” là chân thật, chân thật là không sanh không diệt. A Lại Da bước vào, đem nó biến thành sanh diệt, biến thành mười pháp giới, biến thành sáu cõi luân hồi.

Phàm phu sáu cõi chúng ta dụng tâm là vọng tâm, đây chính là A Lại Da. A Lại Da là từ chân tâm biến hiện ra. Chân, vọng không hai, chân vọng là một thể, như hai mặt một thể, có mặt chính, có mặt phụ, nó là một thể. Nếu chúng  ta dùng mặt chính thì chính là pháp giới nhất chân, còn dùng mặt phụ chính là mười pháp giới, chính là sáu cõi luân hồi. Sự việc này chỉ có Phật kinh mới nói được thấu triệt, nói được vi diệu. Hiện tại chúng ta có thể thể hội, thế nhưng không thiết thật, muốn thiết thật vẫn cần phải dùng mấy năm công phu. Làm thế nào có thể làm cho nó thiết thật? Bạn không thể dùng phương pháp khoa học! Nếu bạn dùng phương pháp khoa học thì không tương ưng với chân tướng sự thật, bạn vĩnh viễn không biết, cái mà bạn có thể biết được chỉ đến đây thôi, đó là năng lượng của tám thức, nó là có hạn, có hạn cuộc. Còn nếu bạn dùng chân tâm thì năng lượng của chân tâm là vô hạn.

Chân tâm là gì? Phía trước chúng ta đã học qua. Chân tâm chính là chánh niệm, chính là vô niệm. Niệm có, niệm không đều là vọng tâm, niệm thiện niệm ác cũng là vọng tâm, niệm Phật pháp, niệm thế pháp cũng là vọng tâm. Có niệm là vọng, vô niệm chính là chân. Vô niệm cũng không phải là không có niệm, bất cứ niệm nào đều không có, vậy thì tà chánh thảy đều không. Trong vô niệm có vô lượng trí huệ, có vô lượng đức năng, có vô lượng tướng hảo, trên “Kinh Pháp Hoa” gọi là “tánh cụ”, cũng chính là trên “Kinh Hoa Nghiêm” Phật nói “tất cả chúng sanh đều có đức tướng trí huệ Như Lai”. Đây là tánh cụ, tự tánh vốn có, tự tánh có trí huệ viên mãn, đức năng viên mãn. Trí huệ đức năng quyết định không phải từ bên ngoài đến, bên ngoài không có.

“Xứ xứ năng duyên, độc bất năng duyên ư Bát Nhã”[2]: Bát Nhã là trí huệ, cái tâm sanh diệt của chúng ta nó duyên không được. Vì sao vậy? Vì nó là vọng tâm! Trí huệ là chân tâm khởi tác dụng. Vọng tâm thì duyên không đến chân tâm, cho nên nó không duyên đến được Bát Nhã. Vậy Bát Nhã đến lúc nào bị phát hiện? Khi bạn “Minh tâm kiến tánh kiến tánh” thì Bát nhã liền phát hiện. Trình độ thế nào có thể được minh tâm kiến tánh? Trong Biệt giáo phải là Địa thượng Bồ Tát (Sơ địa trở lên), Viên giáo phải là Sơ trụ Bồ Tát trở lên.

“Hoa Nghiêm” đem địa vị của Bồ Tát phân làm 52 giai cấp, 52 giai cấp này hoàn toàn là phụ thuộc vào định công cạn hay sâu. Tu thiền định cạn sâu phân thành 52 giai cấp, xếp từ thấp đến cao là: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, đây là bốn mươi, Thập địa là năm mươi. Như vậy phải từ Sơ địa trở lên ở trong Biệt giáo, còn ở trong Viên giáo phải là Sơ trụ (bằng với Sơ Địa của Biệt giáo). Lại từ Sơ trụ hướng tiếp lên trên mà xếp còn có 42 vị thứ nữa, 42 vị thứ này đều là đã minh tâm kiến tánh, đều là vĩnh viễn đoạn dứt khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước. Nếu khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước thảy đều không còn, vậy còn có giai cấp gì? Là bình đẳng! Có khởi tâm động niệm thì không bình đẳng, không có khởi tâm động niệm đương nhiên bình đẳng, không sai! Bồ Tát cõi Thật báo chân thật là bình đẳng, nhưng trong bình đẳng này vẫn còn có không bình đẳng, đó là gì? Tập khí dầy mỏng không như nhau. Phẩm vị ở phía sau thì tập khí rất nồng hậu, còn ở phía trước thì tập khí rất mỏng, cái này không như nhau. Chúng ta phải nên biết, A La Hán kiến tư phiền não đoạn rồi, nhưng tập khí của kiến tư phiền não chưa đoạn, nếu tập khí này đoạn sạch sẽ rồi thì họ không phải là A La Hán, họ nâng cấp rồi, gọi là Bích Chi Phật; Bích Chi Phật phải đoạn trần sa phiền não, trần sa phiền não là phân biệt, chân thật làm đến không phân biệt, không phân biệt nhưng tập khí phân biệt vẫn còn, cho nên Bích Chi Phật đem phân biệt buông xả, họ nâng cấp rồi, họ là Bồ Tát. Bồ Tát vẫn còn có tập khí phân biệt, sau khi tập khí phân biệt đoạn hết, họ lại nâng lên một cấp, họ là Phật trong mười pháp giới. Phật trong mười pháp giới vô minh chưa phá. Nếu vô minh đoạn hết, chính là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh.

Vô minh đã phá rồi, nhưng tập khí vô minh vẫn còn. Tập khí của kiến tư phiền não có phương pháp đoạn, tập khí trần sa cũng có phương pháp đoạn, nhưng tập khí vô minh không có cách gì đoạn. Vì sao vậy? Vì họ phải không khởi tâm không động niệm, không khởi tâm không động niệm thì bạn dùng phương pháp gì để đoạn? Nếu bạn dùng phương pháp chẳng phải khởi tâm động niệm rồi sao? Vậy thì thoái chuyển phức độ lớn, lúc này phải làm sao? Đây gọi là “nhậm vận”, chính là tuỳ nó đi thời gian dài lâu thì tự nhiên không còn. Người xưa vì việc này dùng một thí dụ, giống như bình đựng rượu, trong bình rượu đựng rượu, rượu đổ ra sạch sẽ, chà rửa thật sạch rồi, đích thực không còn chút rượu nào, nhưng ngửi vào vẫn có mùi vị, mùi vị này làm sao trừ bỏ? Không cách nào bỏ, chỉ có một phương pháp, mở nắp bình ra để nơi đó, để qua nửa năm, một năm qua đi thì ngửi lại không còn nữa. Phải thời gian rất dài thì cái tập khí này mới có thể đoạn được. Sau khi tập khí này đoạn xong hết, Thật Báo Độ liền không còn.

Trên “Kinh Kim Cang” nói “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, không hề nói Thật Báo Độ ngoại lệ. Thực ra mà nói cõi Thật Báo không có sanh diệt, nếu nó có cũng sẽ diệt mất, nhưng nó không có mà đây gọi là ẩn hiện. Cõi Thật Báo hiện tiền, đây là hiện, cõi Thật Báo không còn, đây là ẩn, nó không phải sanh diệt, nó không có sanh diệt, có duyên nó hiện, không có duyên nó không hiện, ẩn rồi, ẩn tàng, cho nên trong Đại thừa giáo gọi là “ẩn hiện”. Ẩn hay hiện đối với người cõi Thật Báo mà nói là cá biệt, là biệt nghiệp, không phải cộng nghiệp. Nếu con người này tập khí vô thỉ vô minh đoạn hết, họ tỉnh ngộ ra thì cõi Thật Báo của họ không còn, vậy họ đi đến nơi nào? Đi đến Thường Tịch Quang.

Cho nên tập khí vô thỉ vô minh này với họ không còn có chướng ngại gì, họ cũng giống như Như Lai vậy, trí huệ, thần thông đức tướng không gì không thể thực hiện. Họ có thể phân vô lượng vô biên thân, đến mười phương thế giới lạy Phật. Đi cúng dường Phật, đây là tu phước, nghe Phật giảng kinh nói pháp là tu huệ. Phước huệ song tu, được đại tự tại, đầy đủ Pháp thân, Bát Nhã, Giải thoát, tam đức mật tạng, được Thường Lạc Ngã Tịnh chân thật. Pháp thân có Thường Lạc Ngã Tịnh, Bát Nhã cũng có Thường Lạc Ngã Tịnh, Giải thoát cũng có Thường Lạc Ngã Tịnh, chính là không thể hồi quy Thường Tịch Quang (?), nên cần phải đoạn hết tập khí vô thỉ vô minh thì họ liền quay về Thường Tịch Quang.  

Thường Tịch Quang không có hiện tượng vật chất, không có hiện tượng tinh thần, cũng không có hiện tượng tự nhiên. Thường Tịch Quang ở đâu vậy? “Thường” là không sanh không diệt, “tịch” là thanh tịnh vô nhiễm, “quang” là quang minh biến chiếu, chiếu toàn vũ trụ, ở mọi lúc vào mọi nơi không nơi nào không tồn tại. Chúng ta mọi người thảy đều đang ở trong Thường Tịch Quang của chư Phật Như Lai. Giống như trong cái gian phòng này vậy, có mười mấy ngọn đèn, mỗi ngọn đèn mở lên ánh sáng đều là chiếu khắp cái không gian này, quang cùng quang dung hoà vào nhau không có phân ra. Cho nên bước vào Thường Tịch Quang liền dung hoà thành một khối với tất cả chư Phật Như Lai, đây là tự tánh. Dung nhập Thường Tịch Quang chính là hồi quy tự tánh, quay về tự tánh mới chân thật chứng được đại viên mãn, bạn ở chỗ nào? bạn không nơi nào không có, không lúc nào là không tồn tại. Ta ngày ngày đang nghĩ “A Di Đà Phật con muốn gặp ngài”, A Di Đà Phật bỗng nhiên xem thấy ở trước mặt, Ngài liền hiện thân, vậy có phải ngài từ nơi kia đến? Không phải, (A Di Đà Phật không còn thấy ở trước mặt nữa), tiêu mất rồi, vậy ngài đi đến chỗ nào vậy? Cũng không có! Không đến,không đi, như trên “Kinh Lăng Nghiêm” nói “ngay chỗ sanh ra, ngay chỗ diệt tận”. Ngài không nơi nào không tồn tại, cho nên biến pháp giới, hư không giới, tất cả chúng sanh khởi tâm động niệm ngài đều biết. Bạn lúc nào thì được độ? Đến lúc nào thì cần phải đến để giúp đỡ bạn? Ngài đều biết được, tuyệt đối không để lỡ thời tiết nhân duyên. Đến lúc nào thì ngài thật đến, thật hiện thân, thật nói pháp cho bạn, chân thật giúp đỡ bạn, thành tựu bạn,

Chúng ta phải tin sâu không nghi, mười phương ba đời chư Phật cùng đồng một pháp thân. Trên “Kinh Hoa Nghiêm” nói “Mười phương là nói không gian, vô cùng lớn, không có bờ mé”. Vì sao vậy? Là tự tánh biến, tự tánh không có bờ mé, cho nên hư không pháp giới không có bờ mé; Tự tánh không có ô nhiễm, tự tánh đầy đủ vô lượng trí huệ đức năng. Đây chính là lý do chúng ta tại vì sao học Phật? Vì chúng ta muốn hồi quy tự tánh. Hồi quy tự tánh chứng được đại viên mãn, hồi quy tự tánh ta cùng vạn sự vạn vật đồng một thể. Chứng được một thể rồi, ở ngay trong một thể này mới gọi là giác ngộ triệt để. Cái cầu học này, khi tốt nghiệp rồi là chứng được đại viên mãn, cái đại viên mãn này, tiếng Phạn gọi là Đại Bát Niết Bàn.

Cho nên Niết Bàn trung văn cũng dịch là “viên tịch”. “Viên” là viên mãn, “tịch” là tịch diệt. Tịch diệt là gì? Như hiện tại chúng ta gọi là chân không, nó không có bất cứ thứ gì, thế nhưng nó đều có thể hiện tất cả. Diệu là diệu ở ngay chỗ này. Chân thật không có bất cứ thứ gì, cho nên gọi nó là “không”. Cái không này không phải là “vô”, không gọi nó là vô, nó gặp duyên sẽ hiện tướng. Cho nên nói “chân không bất không, diệu hữu phi hữu”. Diệu hữu là gì? Là chúng ta cảm giác được có, nhưng toàn là giả, đích thực không tồn tại, mà là do mắt chúng ta thấy sai. Chúng ta không xem thấy chân tướng mà xem thấy là vọng tướng, rất nhiều vọng tướng trộn lẫn với nhau. Chúng ta cho rằng nó là thật nhưng kỳ thật nó không phải là thật, căn bản không tồn tại, nhưng chúng ta cho rằng có tồn tại, nhưng nó sớm đã đi qua rồi, vì sao? Bạn thử nghĩ tưởng xem một giây có 1.600 triệu lần sanh diệt, liệu bạn có thể nắm lấy được một cái sanh diệt không? Chắc chắn không thể được, vì thời giờ của chúng ta là từng giây từng giây đi qua, bạn một giây cũng không thể giữ được, huống hồ trong một giây có 1.600 triệu lần sanh diệt. Một cái sanh diệt là một bức hình, bức hình của toàn vũ trụ.

Vũ trụ từ đâu đến? Không phải do vụ nổ lớn. Mà mười pháp giới y chánh trang nghiêm đều từ tâm tưởng mà sanh. Chủng tử trong A Lại Da đó là nhân, tâm tưởng là duyên, tưởng cái gì hiện cái đó, toàn là tự làm tự chịu, hoàn toàn không liên quan với bất cứ người nào. Đây là chân tướng sự thật, chỉ có Phật ở trong kinh điển Đại thừa nói được thấu triệt, nói được tường tận. Thế là chúng ta liền biết được Pháp thân, Bát Nhã, Giải thoát, đây là tự tánh mà chỉ có Biệt giáo Địa thượng Bồ Tát trở lên họ mới có thể duyên đến, họ mới có thể nắm lấy. Con người này chính là như thiền tông đã nói “đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh”, nên họ làm được.

Vậy có người nào duyên đến chỗ này hay không? Có! Ở Trung Quốc lịch sử hai ngàn năm qua, chính là nói từ khi Phật giáo truyền đến Trung Quốc là vào công nguyên năm 67, năm nay 2014, vậy phải đến năm 2067 mới tròn hai ngàn năm. Trong hai ngàn năm này, Phật giáo ở Trung Quốc có thành tựu gì? Chúng ta xem “Ngũ Đăng Hội Nguyên”, trong “Cảnh Đức Truyền Đăng Lục” ghi chép: Ở trong thiền tông Trung Quốc, người đạt đến được cảnh giới này (chính là Biệt giáo Sơ địa trở lên) chúng ta tính toán bảo thủ nhất cũng phải hơn 3 ngàn người. Ngoài ra còn có Giáo Hạ là: Hiền Thủ, Thiên Thai, Tam Luận, Pháp Tướng, thành tựu của các tông phái khác cũng không ít. Tịnh Độ thì thành tựu càng nhiều, vì đây là đạo dễ hành. Đạo khó hành đâu có nhiều người như vậy, đạo dễ hành nên càng có nhiều người thành tựu: Từ đại sư Huệ Viễn, thời Đông Tấn này, ở Lô Sơn xây dựng niệm Phật đường, Liên Xã thứ nhất, hơn một trăm người cùng nhau cộng tu niệm Phật, Viễn Công Đại Sư hướng dẫn (đây là tổ sư đời thứ nhất của Tịnh Độ chúng ta), truyền đến hiện tại qua 1700 năm, người vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, tính đếm tối thiểu nhất cũng vượt qua 100.000 người. Phật giáo cống hiến đối với chúng ta! Vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc tức là bằng với thành Phật, thành tựu hơn so với các pháp môn khác. Các pháp môn khác, họ tuy là minh tâm kiến tánh, nhưng không thể so với vãng sanh Thế Giới Cực Lạc. Còn người vãng sanh Thế Giới Cực Lạc họ đều là A Duy Việt Chí Bồ Tát. Tịnh Tông được gia trì của A Di Đà Phật, tốc độ đặc biệt nhanh, ổn định (ổn định chính là bạn không bị ma chướng), Phật lực gia trì, tất cả chư Phật đều gia trì bạn, tất cả thần hộ pháp đều chăm sóc bạn, cho nên gọi là đạo dễ hành. Vô trụ sanh tâm là đồng thời, vô trụ chính là sanh tâm, sanh tâm chính là vô trụ. Sanh tâm chính là trí tuệ Bát Nhã phóng quang phổ chiếu, vô trụ là tâm địa thanh tịnh bình đẳng, một niệm không sanh. Một niệm không sanh thì phóng quang phổ chiếu.

“Kỳ dư địa tiền, nhưng thị đã thành lưỡng tiệt, nhất thời sanh tâm, lánh nhất thời vô trụ”[3]: Vô trụ không sanh tâm, sanh tâm không thể vô trụ,

“Khả kiến phàm phu tuyệt phần”[4]: Bồ Tát tam thừa đều làm không được, thì phàm phu làm sao có thể làm được?

“Kim thử Tịnh Độ pháp môn, giáo chúng sanh trì danh niệm Phật, linh chúng sanh tức niệm lìa niệm, tiềm thông Phật trí, ám hợp đạo diệu, xảo nhập vô niệm, tức phàm thành thánh”[5].

Cái phương pháp này cực diệu. Tức niệm chính là một câu A Di Đà Phật, lìa niệm là đem tạp niệm vọng niệm khác buông xả, để trong tâm chúng ta chỉ có một niệm, chỉ có A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật ra, không có bất cứ ý niệm nào gọi là lìa niệm. Có câu A Di Đà Phật này là tức niệm. Tức niệm lìa niệm, lìa niệm tức niệm.

Phật trí” là vô sở bất tri, “tiềm thông Phật trí” chính là ngầm thông trí tuệ Bát Nhã tự tánh vốn đủ.

“Ám hợp đạo diệu”: Cái đạo này là đạo thành Phật. Cực diệu!

 “Xảo nhập vô niệm” (Khéo nhập vô niệm): Chính dạy bạn niệm một câu A Di Đà Phật. Niệm lâu rồi trong tự nhiên, không niệm mà niệm, niệm mà không niệm. Bạn nói họ có niệm, họ không có niệm, bạn nói họ không có niệm, họ danh hiệu A Di Đà Phật tiếp nối không ngừng, một câu tiếp nối một câu.

“Tức phàm thành thánh”: Thân của chúng ta là thân phàm phu sáu cõi. Chuyển thành thánh, thân ở thế giới Tây Phương Cực Lạc là thân pháp tánh. Chúng ta hiện tại cái thân thể này là thân pháp tướng, là tướng phần của A Lại Da chính là hiện tượng vật chất, còn thân của Thế Giới Cực Lạc không phải là hiện tượng vật chất, nó là từ pháp tánh biến hiện ra, pháp tánh là thanh tịnh, cho nên thân là thanh tịnh, pháp tánh là không có ý niệm, cho nên tâm họ là “thanh, tịnh, bình, đẳng, giác”. Năm chữ này chính là hình dung pháp tánh, đức năng, đức tướng.

Cố Sớ Sao viết: Việt tam kì ư nhất niệm, tề chư thánh ư phiến ngôn”[6]. Đây là Sớ sao của Đại Sư Liên Trì nói hai câu rất hay:

“Việt” là siêu việt, “tam kỳ” là ba đại A Tăng Kỳ kiếp. Bồ Tát muốn thành Phật theo cách nói thông thường phải mất ba A tăng kỳ kiếp. Cái A Tăng Kỳ kiếp thứ nhất: Tu mãn ba thừa là Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng; Cái A Tăng Kỳ kiếp thứ  hai: Từ Sơ địa đến Thất địa là bảy cái vị thứ; Cái A Tăng Kỳ kiếp thứ ba: Từ Bát địa, Cửu địa, Thập địa là ba vị thứ. Đây là ba đại A Tăng Kỳ kiếp. Còn trong Biệt giáo là tính từ Thập Tín vị đến Thập địa, tu mãn ba A Tăng Kỳ kiếp. Trong khi Tịnh tông chỉ cần một niệm liền siêu việt, một niệm chính là niệm A Di Đà Phật. Có tấm gương, có chứng cứ cho chúng ta xem, Hiền Công lão Hoà Thượng của chùa Phật Lai là lão Hoà Thượng Hải Hiền làm ra tấm gương cho chúng ta xem, ngài là một niệm mà siêu việt Bồ Tát ba Đại A Tăng Kỳ kiếp. Nếu bạn muốn hỏi tôi “lão hoà thượng ngài vãng sanh phẩm vị nào?” Tôi không chút hoài nghi, không chút do dự nói với bạn “thượng thượng phẩm vãng sanh”.

“Tề chư thánh ư phiến ngôn”: “Phiến ngôn” chính là một câu Phật hiệu A Di Đà Phật này, dùng câu Phật hiệu này cùng tất cả chư thánh (cái chư thánh này là nói mười thánh từ sơ địa đến thập địa) đều bình đẳng với họ (“tề” là bình đẳng). Chúng ta là phàm phu được nâng cao lên đến Bồ Tát Pháp Vân Địa, giản lược không cách gì tưởng tượng. Điều này là Thế Tôn nói ở trên kinh, chắc chắn không phải là vọng ngữ.

Chúng ta tu học không thể lo sợ, xả bỏ thân mạng cũng không hề gì, nhưng phải làm đến cùng. Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ khi viết chú giải này bị trọng bệnh, không phải bệnh nhẹ. Mỗi người xem thấy đều mong muốn ông nghỉ ngơi, ông quá mệt rồi suốt ngày từ sớm đến tối ngồi trên bàn viết, bên cạnh bàn viết chất đầy một đống tư liệu tham khảo. Tôi cũng kinh ngạc trước tư liệu chất nhiều đến như vậy, tôi hỏi ông tư liệu nhiều như vậy từ đâu mà có vậy? Ông trả lời “cảm ứng không thể nghĩ bàn”, đều là do một số người mang đến tặng cho ông. Nếu bạn có muốn tìm cũng tìm không ra. Chúng ta học một thứ nào đó, tìm mười mấy hai mươi loại tư liệu tham khảo, đều phải tìm một hai năm. Nhưng bạn thấy tư liệu tham khảo của ông: Kinh luận 83 loại, trước tác của tổ sư đại đức 110 loại, tổng cộng dùng tư liệu tham khảo là 193 loại. Chúng ta chính mắt xem thấy có thể không bội phục hay sao? Năm vóc sát đất, không còn lời gì để nói. Ông mang lấy trọng bệnh đây đều là thị hiện cho chúng ta xem, thị hiện thay chúng sanh khổ, thị hiện dõng mãnh tinh tấn, không sợ ma bệnh, không lo tuổi già, không chịu ngơi nghỉ. Sau khi viết xong chú giải, ông vẫn thường hay tu sửa mãi đến khi xong định bản. Chúng tôi quen biết nhau rất lâu, nếu như ông còn lo lắng đến sức khoẻ của chính mình thì mỗi ngày thời gian làm việc nhất định, cũng có thời gian nghỉ ngơi nhất định, vậy thì chú giải này của ông phải kéo dài rất nhiều năm. Nhưng ông sáu năm hoàn thành chú giải này, còn nếu nghỉ ngơi mà nói thì phải mất 20 năm, ông không thể nghỉ ngơi, ông vì chánh pháp cửu trụ, vì truyền thừa của Tịnh tông muốn làm ra hy sinh phụng hiến. Ông rất nhiều lần phát bệnh nghiêm trọng vẫn không chịu nghỉ ngơi. Nếu chúng ta hiểu rõ tình huống chân thật đối với chú giải này, thì mỗi lần mở ra liền nghĩ ngay đến tình hình của ông vào lúc đó, ông vì ai? Vì chúng ta. Vì để tiện lợi người sau ông biên tập cái tư liệu tham khảo này, để đối với việc học tập thì thuận tiện quá nhiều. Hy vọng mọi người đều có thành tựu giống như Lão Hoà Thượng Hải Hiền vậy, chánh pháp liền hồi phục, chúng sanh đạt được lợi ích chân thật.

/30
 

  Ý kiến bạn đọc

Mã bảo mật   

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây